Phần 3
Độ dài 3,670 từ - Lần cập nhật cuối: 2019-10-29 04:58:51
CÁC PHÁ GIẢ VÀ CÁC NGUYÊN CĂN
Rất lâu sau kết thúc của Khối Thường Xanh, hậu duệ của các cự nhân và loài Ụ Bào Tử vẫn ganh đua giành quyền thống trị khắp thế giới. Loài magnaron và loài genesaur không phải là những kẻ thừa kế duy nhất trong cuộc xung đột này. Những sinh vật mới làm từ đá và rễ cây xuất hiện và tham gia cuộc chiến.
Khi Botaan phát nổ, cơ thể của nó đã giải phóng vô số bào tử chứa đầy Linh Hồn Sự Sống. Những bào tử này bay trở lại bề mặt thế giới và biến đổi mọi thứ mà nó chạm vào. Chúng bám lên da của loài magnaron và làm suy yếu cơ thể họ.
Một số magnaron thoái hóa thành những người khổng lồ nửa da thịt nửa đá được gọi là gronn. Những kẻ ăn thịt khổng lồ này rình rập trong vùng hoang dã, đe dọa những dạng sống nhỏ hơn và nuốt chửng mọi thứ họ tìm thấy. Loài gronn chỉ có trí thông minh ở mức trung bình, nhưng họ lại là những thợ săn cừ khôi. Những gai nhọn nhô ra trên lớp da của họ được dùng làm vũ khí giết mồi, và những phiến đá trở thành lớp áo giáp bảo vệ họ khỏi những sinh vật nguy hiểm khác.
Vì tác động lâu dài của bào tử, một nhóm nhỏ gronn tiếp tục thoái hóa thành những ogron một mắt. Họ thông minh hơn các gronn, nhưng lại không mạnh mẽ bằng. Loài ogron sợ loài gronn, và họ xem những loài thú to lớn đó là thần thánh.
Cũng như một số gronn tiến hóa, một số ogron cũng tiến hóa. Trải qua hàng ngàn năm, số bào tử dư thừa kia sẽ biến họ thành những sinh vật xác thịt được gọi là ogre. Những kẻ cục súc này nhỏ hơn tổ tiên của họ, và một số còn trở thành nô lệ cho ogron.
Từ loài ogre sẽ phát triển nên một chủng tộc khác – một dân tộc được gọi là orc. Họ là những kẻ nhỏ bé nhất trong dòng dõi của Grond. Nhưng dù họ thiếu đi kích thước và sức mạnh, họ lại bù đắp bằng trí tuệ dữ dằn và tri giác về cộng đồng. Bằng cách kết hộp lại với nhau, họ vẫn sống sót trong miền hoang dã khắc nghiệt.
Vài thế hệ sinh vật được sinh ra từ đá đầu tiên – loài magnaron, loài gronn, và loài ogron – được gọi chung là các phá giả. Họ chiếm lấy những ngọn núi cằn cỗi và vực thẳm đầy đá của thế giới. Dù cho các phá giả khác nhau theo nhiều cách, họ đều là hậu duệ của Grond. Tổ tiên chung của họ không biến họ thành đồng minh, nhưng nó vẫn truyền dẫn vào họ phần tàn dư nhỏ bé của gã khổng lồ cổ xưa ấy. Dù cho họ khác nhau trong phong tục hoặc cách sống, tất cả các phá giả đều đối chọi với vùng hoang dã tươi tốt.
Các phá giả vấp phải sự chống đối dữ dội từ loài genesaur và những dạng sống thực vật khác. Những sinh vật đó được gọi chung là nguyên căn, và chúng vốn có dòng dõi từ loài Ụ Bào Tử.
Giống như các phá giả, nhiều nguyên căn đã sống dậy sau sự phá hủy của Botaan. Vô vàn bào tử được giải phóng từ xác của tên khổng lồ đó đã rơi vào miền hoang dã. Trong khi những bào tử kia làm suy yếu những sinh vật bằng đá, chúng lại có tác dụng đối lập với sự sống của thực vật.
Các bào tử đem lại tri giác cho những loài thực vật đang tồn tại. Rừng rậm sống dậy khi những loài vật mới được tạo hình và rảo bước khắp nơi. Một số là những sinh vật nhỏ bé với trí óc đơn giản được gọi là quái củ và quái bào tử. Chủng tộc thông minh nhất và phong phú nhất mới được sinh ra được gọi là quái cây.
Loài quái cây với lớp da vỏ cây tản ra khắp vùng hoang dã của Draenor. Những ký ức mờ nhạt về Khối Thường Xanh vẫn còn lập lòe trong tâm trí chúng, nhưng chúng không biết toàn bộ sự thật về các Ụ Bào Tử hay trận chiến giữa chúng với Grond và các cự nhân.
Dù vậy, số ít ỏi những gì loài quái cây biết được về Khối Thường Xanh vẫn ảnh hưởng mạnh tới nền văn hóa của chúng. Chúng tôn sùng loài genesaur như những vị thần, xem họ như là âm vang từ các Ụ Bào Tử vĩ đại. Loài quái cây cũng loại bỏ chủ nghĩa cá nhân, tin rằng mỗi linh hồn độc lập của chúng đều là một phần của một linh hồn tập thể kết nối tất cả các dạng thực vật tại Draenor.
Cùng với loài genesaur và các sinh vật dạng cây khác, loài quái cây dâng hiến bản thân để bảo vệ rừng rậm. Bởi vậy, chắc chắn chúng sẽ đụng độ với các phá giả.
Suốt nhiều thời kỳ dài, những trận chiến thỉnh thoảng lại diễn ra giữa hai phe phái này, nhưng chẳng bên nào có thể tiêu diệt được bên kia. Những xung đột bất tận giữa họ dần tạo nên biên giới của thế giới và đem lại cân bằng cho Draenor. Dần dần, các phá giả chiếm được quyền kiểm soát hoàn toàn những vùng đất như Gorgrond, Dãy Băng Hỏa, Nagrand, và Arak, trong khi các nguyên căn trồng trọt tại vùng hoang dã ở Rừng Rậm Tanaan, Biển Zangar, Farahlon, Thung Lũng Trăng Đen, và Talador.
DI VẬT CỦA CÁC CỰ NHÂN
Truyền thuyết kể lại rằng một số ít cự nhân vẫn sống sót sau trận chiến với Botaan. Họ cũng bị tác động bởi những bào tử phân tán khắp thế giới này. Sau hàng thiên niên kỷ, cơ thể họ bị teo nhỏ và trở thành xác thịt.
Khi những nền văn minh phàm trần sau này nổi lên tại Draenor, những cự nhân đó đã chết từ lâu. Những sinh vật như là orc sẽ khám phá ra xương của họ và dùng chúng để làm vũ khí, nhà ở, và trang sức. Họ tin rằng những di vật của người khổng lồ có chứa đựng sức mạnh.
NHỮNG VỊ THẦN XỨ ARAK
Linh Hồn Sự Sống bao phủ khắp Draenor nguyên thủy và sinh ra nhiều loài động vật. Gần như tất cả những loài thú đã bị nuốt chửng bởi Khối Thường Xanh và các Ụ Bào Tử.
Với sự kết thúc của Khối Thường Xanh, động vật sống lại có cơ hội sinh sống trên thế giới này một lần nữa. Những tàn dư rải rác của Botaan đã trở thành những cánh rừng chứa đầy Linh Hồn Sự Sống. Những nguồn năng lượng đó đã biến đổi vùng đất và đẩy nhanh quá trình phát triển của những loài sinh vật mới.
Những loài thú đầu tiên nổi lên là những sinh vật khổng lồ mang sức mạnh to lớn đối với vùng đất. Một số có ái lực với ma thuật tự nhiên mà loài quái cây và một số nguyên căn đã làm chủ; số khác chạm được tới nguồn năng lượng nguyên tố của Draenor. Thậm chí có một số còn vượt qua được ranh giới thực tế, chạm tới nguồn sức mạnh của Ánh Sáng và Hư Vô rò rỉ vào vũ trụ này.
Mặc dù có được sức mạnh đáng kể, những loài thú khổng lồ ở Draenor vẫn vấp phải những khó khăn trong việc sinh tồn. Loài quái cây đánh bẫy chúng để dùng làm thức ăn nuôi dưỡng rừng cây, hoặc để cấy vào chúng những loài nấm biến chúng thành tôi tớ cho các nguyên căn. Trong khi đó, các gronn và ogron săn tìm những con thú đó làm thức ăn. Những loài động vật phù hợp nhất để phát triển ở thế giới nguy hiểm này là những loài có cánh có thể bay cao quá tầm với của các nguyên căn và các phá giả.
Hầu hết những chủng tộc dạng chim của Draenor phát triển tại Arak. Một chóp núi đá khổng lồ cao sừng sững trên khu rừng rậm và bờ biển toàn cây bụi quanh đó. Tại đây, ba sinh vật thần thánh được thành hình: chim lửa oai vệ Rukhmar, phong long xấu xa Sethe, và quạ khôn ngoan Anzu.
Những sinh vật này đều mạnh mẽ theo cách của mình. Linh hồn của Rukhmar được chạm tới bởi nguồn sức mạnh Ánh Sáng nguyên thủy. Kết nối của bà với nguồn năng lượng này cho phép bà triệu hồi ngọn lửa phép có thể phá hủy hoặc nuôi dưỡng sự sống. Ngọn lửa nóng trắng âm ỉ cháy trên đôi cánh đỏ cam của bà mà không hề thiêu cháy nó.
Đôi cánh của Sethe ngắn và làm bằng da, và gã không thể bay cao như Rukhmar. Gã có ái lực với nguồn năng lượng bóng tối Hư Vô tồn tại trong vũ trụ.
Anzu nhỏ hơn nhiều so với Rukhmar và Sethe. Những gì ông thiếu về sức mạnh vật lý, ông lại bù đắp bằng trí tuệ sắc sảo. Lúc nào cũng hiếu kỳ, Anzu tìm hiểu những dòng ma thuật đan xen khắp thế giới, và ông khám phá ra bí thuật.
Suốt nhiều năm, ba sinh vật này phần lớn sống cô lập. Họ sống tại Arak, thường xuyên phải chống đỡ những đợt tấn công từ các nguyên căn và phá giả. Chỉ có Anzu là mơ mộng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho chính mình và những đồng loại có lông vũ.
Anzu gọi Rukhmar và Sethe tới để cùng hợp tác với nhau để biến Arak thành một thánh đường của tất cả các loài chim. Tại sao họ lại phải sống dưới sự áp bức của những sinh vật nguyên thủy như nguyên căn và phá giả trong khi họ có thể thống trị vùng đất dành riêng cho họ này?
Anzu và các đồng minh mới cùng nhau đánh đuổi những đứa con của đá và rễ cây khỏi Arak. Khi các phá giả và nguyên căn đã rời đi, vùng đất này phát triển thịnh vượng thành một nơi trú ẩn dành cho những sinh vật có cánh. Rukhmar, Sethe, và Anze trở thành người trông nom cho vùng đất này và vô vàn sinh vật của nó.
Rukhmar thiết lập mối quan hệ khăng khít với những loài chim đẹp nhất: loài kaliri. Bà xem chúng như con ruột của chính mình. Bà và loài kaliri dành phần lớn thời gian đậu trên đỉnh chỏm Arak, tắm dưới ánh mặt trời ấm áp.
Dù cho Rukhmar rất cao quý, bà cũng rất kiêu ngạo. Bà xem bản thân như là hiện thân của sự duyên dáng và đẹp đẽ trong những sinh vật của thế giới này. Bà không bao giờ chạm vuốt xuống mặt đất, và bà ngắm nhìn những sinh vật sinh sống xung quanh cánh rừng với đầy vẻ khinh bỉ.
Anzu canh chừng những loài quạ nhỏ bé hơn sống khắp Arak. Ông hay lui tới vòm khu rừng phía dưới chỏm núi.
Sethe cai trị những loài phong long nhỏ hơn và sống cùng chúng trong những góc tối và khe nứt ở chân chỏm núi. Gã không tôn trọng những loài đi theo mình như Anzu làm với loài quạ. Sethe là một chủ nhân tàn bạo và khắt khe của loài phong long.
Tất cả có vẻ đều ổn tại Arak, nhưng bóng tối đang dấy lên gần chóp núi.
LỜI NGUYỀN CỦA SETHE
Suốt nhiều năm, Sethe trở nên đố kỵ với Rukhmar. Đôi cánh gã không lớn được như của bà, và gã không thể bay vút lên tầng mây như bà. Sethe chỉ có thể lên được tới đỉnh chóp núi mà thôi. Gã bị buộc phải sống cuộc sống của mình dưới bóng Rukhmar.
Đó không phải số phận gã chịu chấp nhận. Sethe mơ đến việc hạ gục Rukhmar và đánh cắp sức mạnh của bà cho chính mình, nhưng gã biết mình không thể làm điều đó một mình. Gã phong long cuối cùng đã tới gặp Anzu và đề nghị được giúp đỡ. Một khi họ đánh bại được Rukhmar, họ sẽ có thể bay vút lên trên nóc nhà của thế giới. Họ sẽ trở thành hai vị vua thống trị xứ Arak.
Sethe cho rằng Anzu cũng ghen tỵ với sức mạnh của Rukhmar. Dù sao thì bà chim lửa đó nhìn xuống ông quạ này với vẻ khinh bỉ cho những kẻ sống gần mặt đất đến vậy. Nhưng Sethe đã nhầm. Anzu không hề ghét Rukhmar, ông thầm yêu bà. Ông quạ từ lâu đã ấp ủ một cảm xúc bí mật dành cho bà chim lửa, nhưng ông chưa bao giờ tập trung đủ sự dũng cảm để thổ lộ cảm xúc với bà. Ông biết rằng Rukhmar sẽ không bao giờ chấp nhận ông ngang hàng với bà.
Anzu cảnh báo Rukhmar về ý định của Sethe. Ông quạ và bà chim lửa cùng lập một hiệp ước để chống lại gã phong long. Vào cái ngày Sethe tấn công, Rukhmar đã sẵn sàng.
Bà nhấn chìm Sethe trong cơn thịnh nộ dữ dội của mình và thiêu đôi cánh của gã ra tro. Khi gã phong long rơi thẳng xuống đất, Anzu sà xuống và móc mắt gã ra. Sethe dùng hơi thở cuối cùng của mình để trả thù Rukhmar và Anzu. Gã tung ra một lời nguyền tồi tệ khắp máu thịt của chính mình, thứ lời nguyền rỉ từ cơ thể gã ra khắp vùng đất.
Sợ rằng lời nguyền sẽ phá hủy Arak, Anzu nuốt chửng Sethe và giam cầm nguồn năng lượng đen tối của gã phong long trong cơ thể mình. Cơn đau đớn hành hạ ông quạ khi lời nguyền biến đổi cơ thể và linh hồn ông. Cơ thể của Anzu queo quắt lại và biến dạng, và ông mất đi khả năng bay lượn.
HÌNH: ANZU CHỊU ĐỰNG LỜI NGUYỀN CỦA SETHE
Dù cho ông đã phải trả một cái giá rất đắt, Anzu đã chế ngự được lời nguyền. Chỉ còn một phần nhỏ máu của Sethe là còn lại. Nó tha hóa vùng đất nơi gã phong long đã ngã xuống, nhưng nó không hề lan rộng. Vùng đất đen tối này về sau được gọi là Trũng Sethekk.
Anzu không dám ra mặt trước Rukhmar. Nếu trước đây bà nghĩ ông không xứng, thì giờ bà sẽ thấy ghê tởm trước cơ thể biến dạng của ông hiện giờ. Ông biết mất vào rừng sâu, và ông phớt lờ Rukhmar bất cứ khi nào bà gọi ông quạ ra mặt.
Dù cho lời nguyền của Sethe đã làm Anzu suy yếu, nó cũng ban cho ông sức mạnh mới. Hấp thụ gã phong long đã cho ông khả năng điều khiển ma thuật hắc ám. Khi Anzu trở nên quen dần với khả năng này, ông bao phủ lấy thân mình bằng một vùng bóng tối để náu mình trước Rukhmar mãi mãi.
Sau nhiều cuộc tìm kiếm vô ích, Rukhmar đã từ bỏ. Bà đã hạ mình trước sự hi sinh cao cả của Anzu, nhưng bà cũng rất kinh hoàng trước lời nguyền đang phủ bóng đen lên ngôi nhà của bà. Rukhmar bay lên bầu trời và rời khỏi Arak. Cuối cùng bà đặt chân xuống đỉnh núi cao nhất tại Gorgrond.
Rukhmar quyết định rằng nếu mình không thể tìm thấy Anzu để cảm ơn ông, bà sẽ báo đáp sự hi sinh của ông bằng cách tạo ra một chủng tộc mới để vinh danh ông. Bà chim lửa rút phần năng lượng sống từ chính mình để biến một số kaliri đi theo bà thành một dân tộc có cánh được gọi là loài arakkoa, nghĩa là “những người thừa kế Arak.” Họ thừa hưởng vẻ duyên dáng và oai vệ của Rukhmar cùng trí thông minh và sự khôn ngoan của Anzu.
Rukhmar định rằng các arakkoa một ngày nào đó sẽ trở lại Arak, nhưng chưa phải bấy giờ. Lời nguyền của Sethe vẫn còn đó, và bà chim lửa không muốn những đứa con mới của mình phải chịu đựng lời nguyền đó. Sau khi họ đã trưởng thành thành một chủng tộc và trở nên thông thái, Rukhmar sẽ dẫn họ trở về quê hương tổ tiên mình.
Nỗi sợ hãi duy nhất của bà là bà sẽ không sống đủ lâu để làm điều đó. Rukhmar đã dành ra rất nhiều phần tinh chất sự sống của mình để tạo ra loài arakkoa. Bà sẽ không bao giờ có thể mạnh mẽ được như trước nữa. Bà chim lửa biết rằng cuối cùng rồi bà sẽ già đi và qua đời khỏi thế giới này.
Trước khi điều đó xảy ra, bà quyết định sẽ giúp đỡ tạo dựng và hướng dẫn nền văn hóa của các arakkoa.
BÌNH MINH CỦA PHONG TỘC
3,000 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Suốt nhiều thế hệ, Rukhmar coi sóc sự phát triển của loài arakkoa từ phía xa. Thỉnh thoảng bà có nói chuyện với chủng tộc non nớt này. Bà kể những câu chuyện về Arak, về sự độc ác của Sethe, và về sự cao quý của Anzu. Rukhmar cũng dạy các arakkoa những bước sơ đẳng về cách điều khiển Ánh Sáng.
Các arakkoa học hỏi rất nhanh. Họ làm chủ được việc sử dụng Ánh Sáng, và họ trở thành những y sư và những nhà chiêm tinh lão luyện. Nhiều phong tục nguyên thủy xoay quanh việc tôn thờ Rukhmar. Họ tôn sùng bà là nữ thần mặt trời, nơi họ xem là ngọn nguồn của ma thuật Ánh Sáng của họ.
Các arakkoa không thỏa mãn với việc chỉ khai thác sức mạnh của Ánh Sáng. Thông qua lời giảng của Rukhmar, họ tôn sùng Anzu là một vị thần giống với cách mà họ làm với vị nữ thần mặt trời. Nhiều arakkoa khám phá ra bí thuật và trở thành những phù thủy giỏi giang.
Khi loài arakkoa phát triển thịnh vượng, Rukhmar cảm thấy sức sống của mình đang phai tàn dần. Bà nói chuyện với những đứa con của mình một lần cuối và thúc giục họ giành lại Arak cho chính mình. Rukhmar đón lấy làn gió và bay về phương nam, và các arakkoa đi theo. Khi họ tới được Arak, bà chim lửa trút hơi thở cuối cùng. Lửa phủ kín cơ thể bà, và bà bốc cháy như một mặt trời thứ hai trên bầu trời.
Các arakkoa xem sự ra đi của Rukhmar là dấu hiệu cho uy thế của chính họ. Họ thề sẽ tạo ra một nền văn minh vĩ đại tại Arak để vinh danh bà, một nền văn minh sẽ làm lu mờ mọi nền văn hóa khác tại Draenor. Ánh sáng trong kiến thức và sức mạnh của họ sẽ rực sáng trên bầu trời như Rukhmar đã từng làm.
Tự gọi mình là Phong Tộc, loài arakkoa giành lấy những nơi cao nhất trên chóp núi của Arak. Họ thu hoạch gỗ từ những cánh rừng xung quanh, và kim loại từ những ngọn núi gần đó. Họ xây dựng nên những công trình to lớn và hào nhoáng quanh ngôi nhà mới trên núi cao của mình. Sử dụng khả năng kiểm soát Ánh Sáng, các Phong Tộc tạo ra những ngọn đèn khổng lồ chứa đựng ngọn lửa phép mà họ treo dọc chiều dài của chóp núi.
Được dẫn đường bởi những câu chuyện thần bí của Anzu và sự hi sinh cao quý của ông, những phù thủy arakkoa nghiên cứu Trũng Sethekk.
Các Phong Tộc nắm lấy cả Ánh Sáng và Hư Vô, tin rằng chúng là bản chất tự nhiên của sự sống. Hai phe phái được thành lập, mỗi phe tập trung vào một lực lượng đối lập. Hội Anhar tìm hiểu về nghệ thuật sử dụng ma thuật thần thánh. Hội Skalax tận tụy học hỏi về ma thuật bóng đêm và bí thuật. Cả hai nhóm đều chiếm địa vị cao trong xã hội Phong Tộc, và họ cùng chia sẻ uy tín và sức ảnh hưởng ngang nhau.
Khi loài arakkoa đã củng cố xong sức mạnh tại Arak, họ bắt đầu đi tìm hiểu thế giới. Họ không phải là một dân tộc theo chủ nghĩa bành trướng, nhưng họ rất hiếu kỳ. Họ tạo ra nhiều tiền đồn khắp Draenor để theo dõi những loài động thực vật địa phương. Các arakkoa tìm hiểu về rừng cây và hình dáng của chúng, và họ đo vẽ những rặng núi to lớn nằm đan xen trên khắp thế giới. Họ choáng ngợp khi nhận ra rằng nhiều trong số những nơi đó là di hài cổ xưa của những sinh vật từng rảo bước trên Draenor.
Dựa vào những câu chuyện được Rukhmar truyền thụ lại, các Phong Tộc biết rằng các nguyên căn và phá giả là con cháu của những người khổng lồ nguyên thủy đó. Loài arakkoa dõi theo cuộc chiến bất tận với đầy vẻ mê hoặc xen lẫn tiếc nuối, nhưng họ chưa bao giờ can thiệp. Họ là con cái của Rukhmar, và họ thừa hưởng sự kiêu ngạo của bà. Tham gia vào một phần sự sống của những kẻ sống dưới mặt đất bị xem là thấp kém đối với các Phong Tộc.