Phần 1
Độ dài 3,773 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 12:39:29
DÒNG DÕI GROND
1,200 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Đế chế Phong Tộc vào thời kỳ đỉnh cao đã vĩnh viễn phá tan sức mạnh của Khối Thường Xanh. Điều này cho phép các chủng tộc khác có cơ hội phát triển, được giải thoát khỏi mối đe dọa khi những nền văn hóa mới chớm nở của họ bị bóp nát bởi các nguyên căn. Xung đột giữa những nền văn hóa mới xuất hiện này và loài arakkoa rất hiếm khi xảy ra; họ không sống ở cùng một nơi, cũng không sống dựa vào những tài nguyên giống nhau. Loài arakkoa bay vút trên bầu trời, và những kẻ sống trên mặt đất không cần phải sợ họ.
Nhưng hậu duệ của Grond không hề sống hòa bình với nhau.
Vào lúc nền văn minh arakkoa sụp đổ, những đứa con của đá đã phát triển mạnh về số lượng và tỏa ra khắp nơi. Một số lượng tương đối nhỏ các gronn, những người khổng lồ hùng mạnh cao sừng sững bên trên những cánh rừng, vẫn còn lang thang khắp thế giới. Họ sống một cách cô độc; không nơi nào tại Draenor có thể cung cấp đủ nhu cầu săn bắn của nhiều gronn cùng một lúc. Khi họ gặp nhau, họ thường chiến đấu đến chết để dành lãnh thổ.
Những sinh vật khác với vóc người nhỏ hơn gronn đã kết hợp cùng nhau để thành lập những xã hội sơ khai. Các ogron, dù cho là những sinh vật cục súc độc ác, rất nhanh chóng học được giá trị của việc hợp tác. Lớn mạnh về số lượng đồng nghĩa với việc chinh phạt được đối thủ. Cô lập đồng nghĩa với thất bại và cái chết. Những bộ lạc ban đầu này gây chiến với nhau liên miên. Niềm kiêu hãnh của một ogron dễ dàng bị đả thương, và chỉ có đổ máu mới có thể trả được sự xúc phạm đó. Hầu hết những chủng tộc khác trên thế giới không đáng cho họ chú ý, trừ việc họ được dùng làm thức ăn hay nô lệ.
Kể cả những chủng tộc có chung tổ tiên với các ogron cũng không thoát. Loài ogre và orc nhanh chóng học được rằng phải lo ngại khi bị chú ý bởi các ogron lớn hơn. Số phận tốt nhất mà một bộ tộc ogre bị chinh phục có thể hi vọng tới là bị gửi đi chiến đấu với vai trò là những chiến binh sẵn có để chống lại các bộ lạc ogron khác. Những ogre ốm yếu già cả thường được dùng làm vật tế sống để giải khuây cho các gronn và ngăn họ khỏi tấn công lãnh thổ của các ogron.
Hậu duệ nhỏ bé nhất của Grond là loài orc, và họ sống rất rất xa lãnh thổ của các ogron. Căn cứ orc lớn nhất vào thời điểm này nằm trong một hệ thống hang động khổng lồ bên dưới Gorgrond. Dù cho đó không phải là một vùng đất phong phú cho lắm, loài orc thích cuộc sống đạm bạc nhưng tự do để tránh khỏi nỗi sợ hãi khi phải làm nô lệ cho các ogron.
ĐẾ CHẾ GORIAN
1,000 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Suốt hàng thế kỷ sau khi xã hội Phong Tộc sụp đổ, các tư tế và phù thủy arakkoa đã tỏa ra khắp nơi, đem theo nhiều mảnh pha lê được chủng tộc này thèm muốn.
Những hội nghị arakkoa Skalax nhỏ bắt đầu tìm kiếm khắp nơi để bổ sung vào nguồn tài nguyên kiến thức và sức mạnh. Một số lại săn đuổi vinh quang cá nhân. Một số tìm cách bảo quản những kỳ quan của nhưng người đã ngã xuống. Một số còn tin rằng một thời kỳ mới sẽ xuất hiện nếu các arakkoa có thể thu thập đủ kiến thức cổ xưa này và xây dựng nên một xã hội mới.
Thủ lĩnh hội Skalax là Yonzi tìm hiểu những kho tàng kiến thức bị chôn dấu bên dưới phế tích của căn cứ Phong Tộc ven biển tại Talador, một nơi giờ đang bị các ogron chiếm đóng. Những cố gắng trao đổi hay mua chuộc các thủ lĩnh ogron đều kết thúc trong bạo lực. Dù cho là những sinh vật ít thông minh hơn nhiều, loài ogron lại khá dữ dội nếu xét về kích thước và sức mạnh. Các arakkoa rút lui chờ đợi thời cơ.
Yonzi và môn đồ theo dõi bộ lạc ogron từ trên bầu trời, tìm kiếm cơ hội lật đổ những kẻ cục súc đó bằng vũ lực. Một cơ hội nhanh chóng xuất hiện: nô lệ của các ogron. Loài ogre dù không hùng mạnh như những chủ nhân man rợ của họ nhưng lại thông minh hơn. Quan trọng nhất, việc bị nô lệ khiến họ tức giận. Chỉ có nỗi sợ hãi ngăn họ khỏi nổi dậy.
Các phù thủy arakkoa bắt đầu bí mật gặp gỡ loài ogre, đề nghị dạy cho họ cách sử dụng bí thuật. Những nô lệ này là những học trò tài giỏi. Họ là hậu duệ xa xôi của Grond, một sinh vật được ban sức mạnh bởi vị titan Aggramar, và bởi vậy họ có bản chất hòa hợp với bí thuật. Hội Skalax rất ngạc nhiên và vui sướng trước khám phá này. Họ chưa từng thấy những kỹ thuật làm phép mới được phát triển một cách dễ dàng đến vậy. Loài ogre có một ái lực đặc biệt với đá, và họ có thể sử dụng sức mạnh bí thuật để tạo hình và biến đổi đá theo ý mình.
Một trong những ogre đầu tiên làm chủ được sức mạnh mới này tên là Gog, và hội Skalax tin rằng gã là thủ lĩnh hoàn hảo để triển khai một cuộc nổi dậy toàn diện. Được ban cho sức mạnh, Gog tiến lên phía trước… nhưng không phải để chống lại các ogron. Gã có một mục tiêu đáng chú ý hơn hẳn trong đầu: các gronn, những kẻ ăn thịt khổng lồ mà toàn bộ loài ogre tôn sùng và e sợ như những vị thần.
Kể cả các arakkoa cũng sững sờ trước tham vọng này, nhưng họ không thể chối bỏ kết quả được. Một mình Gog hạ gục một gronn, và câu chuyện về cuộc chinh phạt đẫm máu của gã lan ra khắp những ogre bị bắt như cháy rừng. Gã giết một kẻ khác. Rồi một kẽ khác nữa. Vào lúc gã đánh bại gronn thứ năm, tin tức về kỳ công của gã đã lan tỏa đến gần như mọi căn cứ của loài ogre. Gronn vốn xem như là những vị thần thực sự, lớn mạnh khủng khiếp cả về kích cỡ lẫn sức mạnh. Không thể giết nổi họ, không thể với một ogre. Ít nhất đó là những gì những nô lệ này từng tin.
Hành động anh hùng của Gog đã đập tan niềm tin này. Nếu gronn còn có thể bị giết, loài ogre còn có gì phải sợ các ogron nữa chứ?
Khi “Gog Kẻ Giết Gronn” quay trở lại với cả dân tộc, không còn cần phải tốn thời gian thuyết phục những nô lệ khác nổi dậy nữa. Họ cùng nhau đứng lên chống lại những chúa tể ogron, châm ngòi cho một cuộc chiến đẫm máu. Cả hai phe đều mất mát rất lớn. Các arakkoa kiên nhẫn theo dõi từ xa, háo hức muốn lấy được những khối pha lê từ căn cứ của các ogron.
Cuối cùng, gần như tất cả các bộ lạc ogron đều đã thất bại dưới tay những nô lệ cũ của họ. Sự thèm khát báo thù và nguồn bí thuật mới có được của loài ogre là quá mạnh để có thể chống chịu. Các ogron còn lại không bị xé xác bị buộc phải phân tán khắp thế giới để trốn thoát.
Sau khi loài ogre đập tan xiềng xích nô lệ, các phù thủy Skalax im lặng tiến vào tìm kiếm những di vật cổ vật Phong Tộc trong phế tích của thành phố. Gog Kẻ Giết Gronn đã nhanh chóng kết thúc nó. Cũng là một phù thủy, gã không muốn phải cho đi bất cứ nguồn sức mạnh tiềm tàng nào. Loài ogre đã phải trá giá cho lãnh thổ này bằng máu. Gog gọi mình là “Gorgog” – Vua Gog – và tuyên bố rằng gã là lãnh đạo của thành phố này. Gã đặt lại tên cho nó làGoria, “Ngai Vàng của Vua.” Gog lệnh cho Yonzi và những môn đồ Skalax phải rời khỏi nơi đây với nỗi đau chết người.
Các arakkoa rời đi, nhưng không được lâu. Hành động của Gog đã chọc tức Yonzi và đồng loại, và họ quyết định sẽ chiếm lấy vùng đất này bằng vũ lực. Vào nửa đêm, các phù thủy arakkoa bất ngờ tấn công thành phố Goria mới chớm nở. Gog và những nhà bí thuật học đệ tử của gã phản công lại, được hỗ trợ bởi hàng ngũ vô số những ogre mới được tự do xem gã là vị cứu tinh. Gã vua đánh bại các arakkoa và bắt Yonzi. Cái chết của thủ lĩnh Skalax đến nhanh chóng.
Câu chuyện về kết cục đáng ghê rợn của Yonzi trong tay Gog lan truyền khắp nơi. Mặc dù đã hứa sẽ tìm lại những khối pha lê Phong Tộc, những cuộc đột nhập của các arakkan vào đất của loài ogre rất ít ỏi và lẻ tẻ sau chuyện đó.
Đế Chế Gorian từ từ mở rộng qua nhiều thế hệ. Dù cho loài ogre không tập trung vào việc chinh phạt, những vùng đất rộng lớn dần rơi vào tay họ. Những gronn và ogron lang thang bị săn đuổi bất cứ khi nào bị tìm thấy, dọn đường cho những căn cứ mới. Những thành phố mọc lên khắp các lục địa của thế giới này. Hai thành phố lớn nhất là Búa Trên nằm ở tây Nagrand, và Thành Chóp Đao nằm tại Dãy Băng Hỏa. Những thành phố này trở thành những tiền đồn quân sự mạnh mẽ thường xuyên mở rộng biên giới đế chế ogre. Một hệ thống giao thương tiên tiến băng qua đất liền và biển cả được thành lập để kết nối Goria và những pháo đài xa xôi.
Goria vẫn là thủ phủ và là một nơi đặc biệt dành cho những kẻ học đạo tới luyện tập nghệ thuật bí thuật. Những khối pha lê Phong Tộc trở nên rất có giá trị tại đây, những mảnh kiến thức của loài arakkoa bị săn tìm ráo riết bởi những phù thủy ogre giỏi giang nhất.
Việc học tập thuật phù thủy của loài ogre và việc phơi mình dưới bí thuật đã có những tác dụng phụ không ngờ tới. Dù cho là rất hiếm, trẻ con đôi lúc được sinh ra với hai cái đầu. Dần họ phát hiện ra rằng những ogre đó là những thầy phép tài ba một cách đáng kinh ngạc, và sự xuất hiện của họ được xem là một điềm tốt. Dần dần, những nhà bí thuật học của Goria thậm chí còn phát triển những phép thuật để tái tạo lại hiện tượng này, khiến nhưng ogre bình thường mọc thêm một cái đầu thứ hai, tăng thêm trí thông minh và năng khiếu ma thuật.
THÀNH LẬP CÁC BỘ TỘC ORC
800 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Cuộc nổi dậy của loài ogre đã thay đổi hệ thống cấp bậc sinh tồn khắp Draenor. Bằng việc phá hủy quyền lực của các ogron và gronn, Đế Chế Gorian đã tiêu diệt hai mối đe dọa lớn nhất đối với loài orc ở Gorgrond. Không còn phải sống chật hẹp trong những hang động ngầm trong lòng đất, họ thành lập những căn cứ cố định trên bề mặt thế giới lần đầu tiên trong suốt nhiều thế hệ.
Dân số loài orc bùng nổ. Không lâu sau, dân số đông đúc đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng, và những loài thú hoang ít ỏi tại Gorgrond bị săn đuổi đến sát bờ vực tuyệt chủng. Căng thẳng gia tăng giữa các gia tộc, nhưng trước khi xảy ra một cuộc chiến tranh thê thảm, nhiều orc đã di cư ra ngoài lãnh thổ. Họ không cần một nơi ở thoải mái – cuộc sống khắc nghiệt dưới lòng đất của họ đã khiến họ rất khỏe mạnh dẻo dai – mà họ cần một vùng đất mới để sinh sống.
Những orc ở lại Gorgrond dần thành lập vài bộ tộc khác nhau: Đá Đen, Sọ Cười, Đao Chớp, và Hàm Rồng. Bộ tộc Đá Đen thống lĩnh hầu hết Gorgrond. Họ vẫn ở tại những hang động tổ tiên của họ, học hỏi về lòng đất xung quanh, phát triển kiến thức về luyện kim và rèn. Loại quặng đá đen đặc biệt nằm rải rác khắp nơi rất khó để khai quật và sử dụng, nhưng một khi họ tìm ra bí mật của nó, các orc có thể sử dụng nó để tạo ra những công cụ và vũ khí kỳ khôi. Những thanh đao của tộc Đá Đen nhanh chóng bị thèm muốn bởi sự bền chắc đáng tin của chúng.
Các orc di cư về phía đông bị thu hút tới khu rừng rậm tươi tốt tại Tanaan. Nơi đây chứa đầy những nguyên căn, và các orc này nhận ra ngôi nhà mới của mình chứa đầy mối nguy hiểm đáng sợ. Dù là không hề thiếu thú săn, những loài thực vật và động vật có độc phát triển mạnh tại khu rừng rậm này. Một sai lầm có thể dẫn tới cái chết từ từ đau đớn. Nó trở thành một nơi phổ biến của những câu chuyện ghê rợn về những orc hùng mạnh bị tê liệt chỉ bởi cú cắn của một con rắn và rồi bị kéo vào rừng sâu bởi những sinh vật không thấy rõ. Hơn thế nữa, có những hang động tối tăm dường như rung động thứ sức mạnh độc ác. Thỉnh thoảng có orc tiếp xúc với tinh chất tối tăm này lại tìm thấy vinh quang. Có lúc họ lại tìm thấy sự điên rồ.
Dân orc tại Tanaan hình thành lối suy nghĩ mê tín và hoang dại. Những ai giữ được tỉnh táo tự gọi mình là bộ tộc Hõm Máu. Những kẻ hoàn toàn lạc lối trong sự thúc giục của bóng tối trong rừng thì bị trục xuất. Dần dần, họ thành lập một bộ tộc khác nhỏ hơn: tộc Nhai Xương, được đặt tên theo tục lệ chấp nhận việc ăn thịt đồng loại trong những thời điểm khó khăn. Hai bộ tộc này gần như không bao giờ là đồng minh, nhưng hiếm khi họ gây chiến với nhau. Rừng rậm đã có quá đủ nguy hiểm cho cả hai.
Các orc đi về phía tây Gorgrond định cư tại vùng hoang dã đầy tuyết tại Dãy Băng Hỏa, được đặt tên theo mùa đông khắc nghiệt và hoạt động của núi lửa. Một số orc trong số đó tin rằng họ sẽ thích nghi được với môi trường này. Có hai bộ tộc là tộc Sói Băng và tộc Vuốt Trắng học được cách đi săn cùng với những con sói bản địa nơi đây, thậm chí còn làm bạn và huấn luyện chúng làm đồng đội. Những orc khác muốn thống trị vùng đất này. Bộ tộc Thần Sấm đi khắp vùng đất hoang đầy băng giá theo những nhóm lớn, thường đi săn những gronn đáng sợ. Một con mồi duy nhất có thể giúp họ trụ được suốt nhiều tuần, nhưng nếu cuộc đi săn thất bại, những orc này sẽ phải chịu những thử thách cực kỳ gian khổ.
Các orc đánh bạo đi về phương nam tìm thấy vùng đất màu mỡ Talador. Ba bộ tộc định cư trên những ngọn núi và đồng bằng nơi đây: tộc Đao Lửa, tộc Lữ Khách Đỏ, và tộc Gió Đao.
Một bộ tộc thứ tư di cư xa hơn nữa về hướng tây nam, sâu vào khu đồng cỏ tại Nagrand. Họ được gọi là bộ tộc Chiến Ca, và những orc này lang thang khắp những đồng cỏ như những người du mục, hiếm khi ở lại một chỗ suốt vài tháng. Tộc Chiến Ca thường xuyên gây chiến với loài ogre của Đế Chế Gorian để giữ vững vị trí tại Nagrand. Một số thế hệ tộc nhân Chiến Ca phát triển mạnh hơn những thế hệ khác. Bộ tộc rất có năng khiếu chiến đấu, nhưng khi những chiến binh này chọc tức loài ogre quá nhiều, hậu quả mang lại thỉnh thoảng rất tàn khốc.
Phía đông nam, một bộ tộc khác hình thành tại Thung Lũng Trăng Đen. Những orc sống xa cách khỏi những căn cứ chính của Gorian, cho phép họ sống một cách khá thanh bình. Bộ tộc Trăng Đen bị mê hoặc bởi bầu trời đầy sao, và họ tin rằng họ có thể nhìn thấy tương lai từ chuyển động của các vì sao. Những orc sống tại đây là những người rất bí ẩn, và họ xây dựng những truyền thống và nghi lễ tập trung quanh việc tôn thờ tổ tiên và thuật chiêm tinh.
HÌNH: BẢN ĐỒ VỊ TRÍ CÁC BỘ TỘC ORC KHẮP DRAENOR
BỘ TỘC HÀM RỒNG
Theo tiếng orc, bộ tộc Hàm Rồng được gọi là Nelghor-shomash, nghĩ là “Tiếng Thét của Muông Thú.” Bộ tộc này nhận được cái tên đó sau khi học cách thuần hóa những con rylak hung dữ, những sinh vật có cánh đi săn phía bên ngoài Gorgrond. Tộc Hàm Rồng trìu mến gọi chúng là nelghor, nghĩa là “thú vật trung thành.” Khi bộ tộc này về sau gặp được loài rồng tại thế giới Azeroth, họ cũng gọi những sinh vật này bằng cái tên đó. Tất cả orc cuối cùng sẽ xem rồng đồng nghĩa với nelghor. Cái tên của bộ tộc Hàm Rồng không bao giờ thay đổi, nhưng ý nghĩa của nó thì có.
PHÁP TĂNG ĐẦU TIÊN
Những nhà thần bí tộc Trăng Đen thường xuyên lên đường du ngoạn khắp thế giới, hi vọng được nghe thấy ý nguyện của thần linh. Nhiều trong số đó nhận được những giấc mơ và hình ảnh kỳ lạ gần dãy núi phía tây bắc Nagrand. Loài orc không hề biết, đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Grond. Những nguồn năng lượng nguyên tố tràn ngập khắp nơi đây, đặc biệt là ở chân núi. Tại đó, phần đầu của gã khổng lồ cổ xưa đã tạo thành một hòn đảo nhỏ ở giữa một hồ nước thanh bình.
Những vị khách tộc Trăng Đen đầu tiên tới nơi đây học hỏi về những linh hồn nguyên thủy của lửa, khí, đất, và nước của thế giới này. Các orc cực kỳ kính trọng những thực thể này, và họ đặt tên cho nơi họ khám phá ra là Ngai của các Nguyên Tố.
HÌNH: NGAI CỦA CÁC NGUYÊN TỐ
Sự ra đời của pháp tăng giáo trong loài orc là một quá trình chậm rãi. Những người con của đá này tập trung quanh di thể của Grond và học cách hướng dẫn các linh hồn nguyên tố bằng trái tim rộng mở và cảm giác về sự hòa hợp. Không như loài ogre với thuật phù thủy tàn nhẫn xé rách và tạo hình đất đá, loài orc nắm lấy sức mạnh của họ một cách hoàn toàn kính trọng. Và khi các nguyên tố ban sức mạnh cho một pháp tăng, kết quả rất đáng ngạc nhiên. Lũ lụt có thể thay dòng. Những làn gió mạnh sẽ thổi bay những arakkoa cướp bóc. Chưa có orc nào từng thấy một phép màu như vậy. Chưa có orc nào từng nắm được kết nối như vậy với thế giới tự nhiên.
Tộc Trăng Đen là những người đầu tiên dâng hiến bản thân cho các nguyên tố, và họ biến đầu của Grond thành một ngôi đền thô sơ. Dần dần, họ lan truyền bài giảng đó cho các orc khác, và gần như tất cả các bộ tộc đều nhận chỉ giáo. Những orc trẻ được nuôi dạy từ lúc sinh ra tới khi trở thành những đồng minh can đảm trung kiên của các linh hồn nguyên tố. Khi họ già đi, những pháp tăng lão luyện này đi tới Ngai của các Nguyên Tố để tìm kiếm sự ban phước của các linh hồn. Họ bước vào trạng trái xuất thần để hòa nhập tâm trí với các nguyên tố. Một số orc được xem là xứng đáng; số khác thì không.
Bằng việc vươn tới bên ngoài bức màn che phủ thế giới thực tế, một số orc còn giao tiếp được với các lực lượng đen tối. Những linh hồn tội nghiệp đó vô tình nhìn thấy một xứ sở nằm bên ngoài Draenor – cõi Hư Vô. Những gì những orc đó nhìn thấy khiến họ phát điên. Những người sống sót bị trục xuất ra khỏi bộ tộc và buộc phải sống cách biệt trong những hang động bên dưới Nagrand. Hình hộp sọ trắng bị xăm trên mặt họ, đánh dấu họ là “đã chết” đối với dân tộc mình.
Những orc được các nguyên tố đón chào quay trở lại bộ tộc với vai trò là thủ lĩnh tinh thần rất được sùng kính. Lời khuyên của họ được đánh giá rất cao, chỉ thứ hai sau lời nói của tộc trưởng bộ tộc. Kết nối giữa các pháp tăng vượt qua cả biên giới các bộ tộc, cho phép họ làm trung gian hòa giải xung đột một cách hòa bình.
Bộ tộc Trăng Đen bắt đầu tổ chức một buổi gặp mặt một năm hai lần của các pháp tăng được gọi là lễ hội Kosh’harg. Dần dần, buổi gặp mặt này lan truyền tới tất cả loài orc. Hội Kosh’harg trở thành thời điểm hiếm hoi khi các bộ tộc gạt bỏ mọi mối hiềm thù, chia sẻ tin tức, nuôi dưỡng những kết nối, và ăn mừng tình bạn.