Chương mười bốn
Độ dài 4,868 từ - Lần cập nhật cuối: 2019-10-29 04:58:56
Bắc Liệt là tên vùng đất đó, Vịnh Mũi Dao là nơi đội tàu Lordaeron cập bến. Vùng biển sâu lạnh cóng màu xám xanh không hề yên ả với những luồng gió dữ dội. Những vách đá dốc đứng mọc rải rác những cây thông dẻo dai chĩa thẳng lên trời, tạo ra một bức tường phòng thủ tự nhiên bảo vệ khu vực bằng phẳng nhỏ bé mà Arthas và binh lính hạ trại. Một thác nước đổ xuống bắn lên những tia nước cao vút. Nơi đó dễ chịu hơn nhiều so với anh tưởng tượng, ít nhất là vào lúc này; và chắc chắn không phải là một ngôi nhà lý tưởng cho một chúa quỷ.
Arthas nhảy ra khỏi tàu và ì ạch đi tới bãi biển, mắt anh đảo quanh nhìn mọi thứ một cách mê mải. Luồng gió lạnh buốt thổi xõa tung mái tóc dài của anh, vuốt ve nó bằng những ngón tay lạnh giá. Bên cạnh anh, một trong các thuyền trưởng anh đã trưng dụng mà không báo trước cho cha anh đang run lên và vỗ hai tay lại với nhau, cố làm ấm những ngón tay.
“Đây là một vùng đất đã bị Ánh Sáng bỏ rơi phải không? Khó lòng thấy được mặt trời ấy! Luồng gió ảm đạm lạnh thấu xương mà người thậm chí còn không run lên.”
Arthas hơi ngạc nhiên một chút và nhận ra anh ta đã đúng. Anh cảm thấy cái lạnh – cảm thấy nó đang đâm vào người anh – nhưng anh không hề run lên.
“Thưa hoàng tử, người vẫn ổn chứ?”
“Thuyền trưởng, toàn bộ quân lực đã tới chưa?” Arthas không thèm trả lời câu hỏi đó. Quả là một câu hỏi ngu ngốc. Dĩ nhiên là anh vẫn ổn rồi. Anh bị buộc phải tàn sát toàn bộ dân cư một thành phố để ngăn chặn một tội ác xấu xa. Jaina và Uther đều quay lưng lại với anh. Và một tên chúa quỷ đang chờ anh tới.
“Gần hết. Còn vài tàu đang-”
“Tốt lắm. Ưu tiên đầu tiên là phải thiết lập một căn cứ chính được phòng thủ chắc chắn. Chẳng biết được có gì đang chờ đợi chúng ta ngoài kia trong bóng tối đâu.” Câu nói này sẽ khiến người đàn ông kia phải im lặng và có việc để làm. Arthas cũng giúp đỡ anh ta ra lệnh những người khác dựng lên chỗ trú ẩn tạm bợ. Anh nhớ tài sử dụng lửa của Jaina khi họ đốt những đống lửa giúp chống chọi lại cái lạnh và bóng tối đang buông xuống. Anh nhớ Jaina đến phát điên. Nhưng anh biết mình cần phải dẹp nỗi nhớ đó đi. Cô đã phụ lòng anh lúc anh cần cô nhất, và anh sẽ không giữ con người đó trong trái tim nữa. Cần phải mạnh mẽ, không được mềm yếu; quyết đoán, không được nhức nhối. Không có chỗ dành cho sự mềm yếu nếu cần phải đánh bại Mal’Ganis. Không có chỗ dành cho hơi ấm nữa.
Một đêm trải qua mà không có biến cố nào xảy ra. Arthas cứ thức mãi trong lều tới tận nửa đêm về sáng, nghiên cứu kỹ những bản đồ không đầy đủ mà anh có thể tìm thấy. Rồi khi anh ngủ thiếp đi, anh mơ về những giấc mơ đầy cả niềm vui và ác mộng. Anh được trẻ lại, có cả thế giới để nắm bắt, và được cưỡi con ngựa trắng huy hoàng mà anh rất đỗi yêu quý. Một lần nữa họ lại trở thành một thể hoàn hảo, và không có thứ gì có thể ngăn cản họ. Và kể cả khi đang mơ, Arthas cũng cảm thấy nỗi kinh hoàng buông xuống khi anh thúc Bất Bại thực hiện bước nhảy chết chóc đó. Nỗi đau đớn chẳng hề thuyên giảm dù anh biết đó chỉ là một giấc mơ giằng xé tâm can anh. Và một lần nữa, anh rút kiếm ra đâm vào tim người bạn tận tụy của mình.
Nhưng lần này… lần này anh nhận ra rằng anh đang cầm một thanh kiếm hoàn toàn khác với món vũ khí thông thường anh mang vào khoảnh khắc đáng sợ đó. Thanh kiếm hai tay cầm này thật khổng lồ và đẹp đẽ. Những dòng cổ tự tỏa sáng dọc sống kiếm. Luồng hơi lạnh màu xanh lục bốc ra từ đó, lạnh lẽo y như nền tuyết mà Bất Bại đang nằm. Và khi anh rút kiếm ra, Arthas nhận ra thứ mình đang nhìn không phải là một con thú vừa bị giết. Bất Bại hí vang và đứng dậy, hoàn toàn đã hồi phục, bằng cách nào đó còn mạnh mẽ hơn cả trước đây. Nó có vẻ đang tỏa sáng, lớp lông sáng rực hơn cả màu trắng thông thường, và Arthas bất dậy giữa đống bản đồ mà anh đã ngủ quên, nước mắt ngân ngấn trong mắt anh và môi anh khóc thổn thức vì niềm vui. Nhất định là một điềm báo.
Bình minh buổi sáng lạnh lẽo xám xịt, và anh thức giấc trước khi tia sáng đầu tiên xuất hiện, rất hăm hở muốn bắt đầu lùng sục vùng đất này để tìm dấu vết của tên chúa tể sợ hãi. Arthas biết hắn đang ở đây.
Nhưng trong ngày đầu tiên, họ chẳng tìm thấy gì ngoài vài nhóm nhỏ xác sống. Nhiều ngày trôi qua, nhiều vùng đất dần được đo vẽ, tinh thần Arthas bắt đầu chùng xuống.
Anh nhận ra rằng Bắc Liệt là một lục địa rộng lớn chỉ vừa mới được khám phá. Đúng là Mal’Ganis là một chúa tể sợ hãi, và những nhóm xác sống họ tìm thấy trước giờ có lẽ là dấu hiệu cho sự có mặt của hắn. Nhưng như thế là không đủ. Hắn có thể ở bất cứ đấu – hoặc không đâu cả. Việc để lộ ra rằng hắn đang ở Bắc Liệt có thể chỉ là một trò lừa đảo để khiến Arthas tránh xa khỏi hắn để con quỷ đó có thể đi tới một nơi khác và-
Không. Điều đó thật điên khùng. Tên chúa tể sợ hãi này rất kiêu căng, rõ ràng hắn hoàn toàn có thể đánh bại vị hoàng tử con người của chúng ta. Arthas phải tin rằng hắn đang ở đây. Phải như vậy. Dĩ nhiên điều đó cũng có nghĩa rằng Jaina đã đúng. Rằng Mal’Ganis thực sự ở đây, và đã đặt sẵn một cái bẫy dành cho anh. Những suy nghĩ đó chẳng dễ chịu chút nào, và Arthas càng nghiền ngẫm về chúng thì anh càng trở nên bối rối.
Mất tận hai tuần lễ thì Arthas mới tìm thấy thứ cho anh lại hi vọng. Họ đã hành quân về một hướng khác, sau khi hai trinh sát trở về mang theo tin tức về một nhóm xác sống lớn. Họ đã tìm thấy lũ xác sống đó – chúng đã bị phanh thây và nằm trên nền đất băng giá. Trước khi Arthas kịp suy nghĩ, anh và binh lính đã bị tấn công.
“Tìm chỗ trú!” Arthas hét lên, và rồi họ nấp vào sau mọi thứ có thể tìm thấy được – cây cối, đá, kể cả những ụ tuyết. Gần như ngay khi bắt đầu, cuộc tấn công đã ngừng lại và một tiếng kêu vang lên.
“Ôi khốn nạn quá! Mấy ngừi hông phãi xác xống! Mấy ngừi đều còn xống!”
Arthas nhận ra giọng nói đó và không thể ngờ nổi lại có thể gặp lại tại vùng đất hoang vu này. Chỉ một người mà anh biết lại có thể chửi thề hăng hái tới vậy, và trong chốc lát, anh quên mất tại sao anh lại ở đây, anh đang tìm kiếm thứ gì, và chỉ cảm thấy vui sướng khi ký ức thời xa xưa quay trở về.
“Muradin?” Arthas hét lên sửng sốt và thích thú. “Muradin Bronzebeard, phải ông đó không?”
Ông lùn mập mạp bước ra từ phía sau hàng người cầm vũ khí và nhìn quanh đầy cảnh giác. Vẻ cau có trên mặt ông biến thành một điệu cười toe toét. “Arthas, chèng trai! Ta hông ngờ rằng cậu lại là ngừi tới giãi cứu bọn ta đấy!”
Ông bước tới trước, bộ râu rậm rạp che phủ nhiều phần khuôn mặt hơn cả lúc Arthas nhớ lại khi còn trẻ, mắt ông có thêm nhiều nết nhăn nhưng giờ đây đang sáng lên đầy niềm vui. Ông bước về phía Arthas và vươn tay ra ôm lấy hông vị hoàng tử. Arthas cười lớn – Ánh Sáng ơi, đã lâu lắm rồi anh không cười lớn như vậy – và anh ôm chặt người bạn cũ và cũng là người huấn luyện viên của mình. Khi họ tách nhau ra, Arthas bỗng để ý đến những lời của Muradin.
“Giải cứu ư? Muradin à, ta thậm chí còn không biết ông đang ở đây. Ta đến để-” Anh bỗng im bặt. Anh không biết Muradin sẽ phản ứng như thế nào, nên anh chỉ mỉm cười với ông lùn. “Điều đó thì để sau,” anh nói. “Đi nào bạn của ta. Bọn ta đã hạ trại cách đây không xa lắm. Ông và binh lính có thể có được một bữa ấm bụng đấy.”
“Nếu cậu có cã riệu nữa thì ta đồng ý,” Murdian cười toe toét.
Quả là một bầu không khí vui vẻ khi Arthas, Muradin, phó tướng Baelgun của ông, và những người lùn khác hướng trở về khu trại dường như khiến cả cái lạnh giá cũng bị xua tan. Arthas biết rằng người lùn đã sống quen với khí hậu lạnh giá và là những người khỏe mạnh vạm vỡ, nhưng anh nhận ra sự khuây khỏa và biết ơn hiện ra trên những khuôn mặt đầy râu khi họ được đưa cho những tô thịt hầm bốc khói nghi ngút. Thật là khó khăn, nhưng Arthas vẫn cố kiềm chế câu hỏi đang nung nấu trong lòng cho tới khi Muradin và binh lính của ông đã được chăm sóc tử tế. Rồi anh ra hiệu cho Muradin đi ra xa khỏi trung tâm khu trại, tới gần khu lều của anh.
“Chà,” anh nói khi cựu huấn luyện viên của mình bắt đầu ăn ngấu nghiến món đồ ăn nóng hổi như một cỗ máy của người đoản nhân, “các ông đang làm gì ở đây vậy?”
Muradin nuốt món đồ ăn và với tay lấy ít rượu. “Chà, chèng trai à, việc nì hông cần phãi chia xẽ cho tất cã mọi ngừi.”
Arthas gật đầu đồng ý. Chỉ vài thành viên đội tàu anh trưng dụng là biết toàn bộ câu chuyện tại sao họ lại tới Bắc Liệt. “Ta thật cảm kích vì ông đã tin ta, Muradin à.”
Ông lùn vỗ vai anh. “Cậu đã lớn lên đầy mạnh khõe zồi chèng trai à. Nếu cậu tìm được đường tới zùng đất bị bõ rơi nì, cậu có quyền được bít ta và người cũa ta đang làm zì ỡ đây. Ta đang tìm một huyền thoại.” Mắt ông sáng lấp lánh khi nhấp một ngụm rượu và lau miệng rồi nói tiếp. “Người của ta vẫn lun thích thú với những thứ đồ hiếm, cậu bít mà.”
“Quả vậy.” Arthas nhớ lại về chuyện rằng Muradin đã giúp tạo nên một thứ tên là Liên Đoàn Thám Hiểm. Nó nằm ở Lò Sắt, và các thành viên đi tới khắp thế giới để thu thập tin tức và tìm những kho báu khảo cổ. “Vậy là ông đang đi làm việc của Liên Đoàn ở đây à?”
“Ầy đúng zậy. Ta đã đến đây nhìu lần zồi. Đây quã là một zùng đất hấp zẫn đến kỳ cục. Hông dễ dàng đễ lộ bí mật… và điều đó khiến nó trỡ nên đáng tò mò.” Ông thò tay vào túi và lấy ra một cuốn nhật ký bọc da trông có vẻ đã nhàu nát đi thấy rõ và nhe răng đưa nó cho Arthas. Vị hoàng tử cầm lấy và bắt đầu lật qua từng trang giấy. Có hàng trăm bản phác thảo về các sinh vật, vùng đất, và phế tích. “Có nhìu thứ trong đây hơn cả những zì đập zô mắt ngừi ta đó.”
Nhìn những hình ảnh đó, Arthas phải đồng ý. “Hầu hết thời gian chĩ là nghiên cứu,” Muradin nói tiếp. “Học hõi.”
Arthas đóng quyển sách lại và trả cho Muradin. “Khi ông thấy bọn ta ông đã ngạc nhiên – không phải vì bọn ta là xác sống, mà là vì bọn ta không phải xác sống. Ông đã tới đây bao lâu rồi – và ông đã học hỏi được gì từ đó rồi?”
Muradin vét chỗ thịt hầm cuối cùng khỏi tô, lau sạch nó bằng một miếng bánh mì, rồi ăn hết chỗ đó. Ông khẽ thở dài. “Hà, ta rứt nhớ chỗ bánh ngọt mà mấy thợ làm bánh trong cung thường nướng.” Ông tìm cái tẩu thuốc. “Và đễ trã lời cho câu hõi cũa cậu, đũ lâu để bít có thứ nào đóa xấu xa tãi đây. Có thứ… sức mạnh nào đóa đang phát triễn. Càng lúc càng tệ hơn. Ta đã nói chiện với cha cậu rùi; ta nghĩ sức mạnh này hông bằng lòng với việc chĩ ngồi im tại Bắc Liệt nì đâu.”
Arthas cố không tỏ ra vừa lo lắng lẫn thích thú, cố bình tĩnh. “Ông nghĩ nó có thể gây ra nguy hiểm với thần dân của ta ư?”
Muradin ngửa người ra và đốt tẩu thuốc. Mùi thuốc lá dễ chịu và quen thuộc tại vùng đất xa lạ này xoa dịu lỗ mũi Arthas. “Ầy, ta nghĩ zậy. Ta nghĩ nó đã tạo ra lũ xác xống phiền phức nì.”
Arthas quyết định đã đến lúc chia sẻ những gì anh biết. Anh nói nhanh nhưng đầy bình tĩnh, kể cho Muradin về loại lúa mì nhiễm bệnh. Về Kel’Thuzad, và về Giáo Phái Đọa Đày, và lần đụng độ kinh hoàng đầu tiên của anh với những nông dân đã bị biến đổi. Về việc biết rằng một chúa tể sợ hãi là Mal’Ganis là kẻ đứng đằng sau bệnh dịch này, và về lời mời mọc đến Bắc Liệt đầy chế nhạo của con quỷ đó.
Anh chỉ nhắc thoáng qua đến Thung Cốn. “Bệnh dịch đã lây lan tới cả đấy,” anh nói. “Ta phải đảm bảo rằng Mal’Ganis không còn xác chết để sử dụng vào mục địch bệnh hoạn của hắn.” Thế là đủ rồi; tất cả đều đúng, và anh không chắc rằng Muradin có hiểu được sự cần thiết của những gì Arthas đã buộc phải làm. Jaina và Uther rõ ràng không hiểu nổi dù họ cũng đã thấy rõ những gì Arthas phải đối mặt.
Muradin lẩm bẩm. “Ziệc đó thựt tệ. Có lẽ cỗ vật mà ta đang tìm kiếm có thễ giúp cậu chống lại tên chúa tễ sợ hãi nì. Trong những thứ đồ ma thuật hiếm có, thứ nì còn tuyệt zời hơn nữa. Thông tin zề nóa chỉ mới được bít đến mà thui, nhưng từ khi bọn ta bít được về nóa – ui cha, bọn ta đã tìm kiếm từ rứt lâu và vất vả rùi. Có zài thứ đồ ma thuật đặc biệt đễ truy tìm nóa, nhưng chưa có chút may mắn nào cã.” Ông ngước mắt khỏi Arthas và nhìn lên phía trên đầu anh, về vùng đất hoang vu hiện ra lù lù kia. Trong khoảnh khắc, ánh sáng trong mắt ông tắt đi và được thay thế bởi sự u sầu mà từ bé đến giờ Arthas chưa bao giờ thấy.
Arthas chờ đợi trong hiếu kỳ cực độ, nhưng không muốn tỏ ra như một đứa trẻ thiếu kiên nhẫn mà hẳn Muradin vẫn còn nhớ.
Muradin lại tập trung trở lại và chăm chú nhìn Arthas. “Bọn ta đang tìm kiếm một thanh cỗ tự kiếm tên là Băng Sầu.”
Băng Sầu. Tâm can Arthas cảm thấy hơi rùng mình khi nghe thấy cái tên đó. Một cái tên hung gở cho một thứ vũ khí huyền thoại. Cổ tự kiếm không phải là cái tên chưa bao giờ nghe thấy, nhưng chúng cực kỳ hiếm và là thứ vũ khí hùng mạnh khủng khiếp. Anh nhìn cây búa của mình đang tựa vào một cái cây mà anh đã đặt sau khi quay trở về lúc tìm thấy Muradin. Đó là một món vũ khí đẹp đẽ, và anh rất yêu quý nó, mặc dù mới đây Ánh Sáng phát ra từ nó đã rất lờ mờ, có lúc còn không có.
Nhưng một thanh cổ tự kiếm-
Đột nhiên anh cảm thấy quả quyết như thể số phận đang thì thầm vào tai anh. Bắc Liệt là một nơi rất rộng lớn. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà anh gặp được Muradin. Nếu anh có được Băng Sầu – chắc chắn anh sẽ giết chết được Mal’Ganis. Kết thúc bệnh dịch này. Cứu thần dân của mình. Ông lùn và anh đã tới đây vì một lý do. Đó chính là vận mệnh.
Muradin nói tiếp và Arthas hướng sự chú ý về phía ông. “Bọn ta đến đễ giành lại Băng Sầu, nhưng càng lại gần, bọn ta càng gặp nhìu xác xống. Và ta đã quá già đễ có thễ nghĩ đó chĩ là trùng hợp.”
Arthas khẽ mỉm cười. Vậy là Muradin cũng không tin là trùng hợp. Sự quả quyết trong anh dâng tràn. “Ông nghĩ rằng Mal’Ganis không muốn chúng ta tìm thấy nó,” Arthas lẩm bẩm.
“Ta hông nghĩ hắn sẽ zui khi thấy anh lao zào hắn với thứ zũ khí đóa trong tay, điều đóa là chắc chắn.”
“Vậy có vẻ như chúng ta có thể giúp lẫn nhau đấy,” Arthas nói. “Bọn ta sẽ giúp ông và Liên Đoàn của ông tìm Băng Sầu, và ông có thể giúp bọn ta chống lại Mal’Ganis.”
“Nghe hay đó,” Muradin đồng ý, khói thuốc bốc lên thơm phức quanh ông với màu đen xanh. “Arthas, chèng trai cũa ta… có còn chút riệu nào hông?”
Nhiều ngày trôi qua. Muradin và Arthas đối chiếu những bản ghi chép lại với nhau. Giờ họ có hai nhiệm vụ – Mal’Ganis và thanh cổ tự kiếm. Cuối cùng họ quyết định rằng hành động thông minh nhất là tiếp tục tiến sâu vào trong và cử đội tàu đi về phía bắc và thành lập một khu trại mới ở đó. Họ phải chiến đấu với không chỉ lũ xác sống mà còn với nhiều đàn sói xấu xa và đói bụng, những sinh vật kỳ lạ nửa chồn nửa người, và một chủng tộc troll có vẻ đã chọn vùng đất phương bắc này làm nhà chứ không như những đồng bào sống tại những khu rừng rậm ẩm ướt xứ Gai Siết. Muradin chẳng hề ngạc nhiên như vị hoàng tử khi gặp những sinh vật đó; dường như cũng có một nhóm gần giống với lũ “troll băng” này sống gần thủ đô Lò Sắt của người lùn.
Arthas biết được từ Muradin rằng lũ xác sống có nhiều căn cứ tại đây; nhưng kiến trúc dạng đền đài kỳ lạ nhuốm đầy ma thuật hắc ám thuộc về một chủng tộc cổ xưa và có lẽ đã tuyệt chủng vì không nhìn thấy những cư dân xưa sống tại đây. Không chỉ lũ xác chết di động là cần bị tiêu diệt mà cả nơi ẩn náu của chúng nữa. Từng ngày trôi qua Arthas tới càng gần với mục tiêu của mình hơn. Có đôi chút dấu hiệu của trò độc ác của Mal’Ganis, nhưng không hề thấy tên chúa tể sợ hãi đó đâu cả.
Việc truy tìm thanh Băng Sầu đầy hấp dẫn của Muradin cũng chẳng khá khẩm hơn. Những manh mối, cả thực tế lẫn tâm linh đều càng lúc càng thu hẹp khu vực tìm kiếm lại, nhưng thanh cổ tự kiếm vẫn đang còn nằm trong vòng bí mật.
Cái ngày mọi thứ thay đổi, Arthas đang rất nóng nảy. Anh đang quay về khu trại tạm thời của họ, đói khát mệt mỏi và lạnh cóng sau một ngày không có kết quả nữa. Anh đang tức giận tới độ không nhận ra ngay được sự việc ngay trước mặt.
Không thấy các lính canh đứng gác. “Cái quái-” Anh quay về phía Muradin, người vừa ngay lập tức nắm lấy cây rìu của mình. Dĩ nhiên chẳng có cái xác nào cả; nếu lũ xác sống tấn công lúc anh đi vắng thì những cái xác cũng đã được dựng lên một cách miễn cưỡng rồi. Nhưng đáng ra phải có máu, dấu hiệu của một cuộc chiến chứ… nhưng chẳng có gì cả.
Họ tiến tới trong im lặng và cẩn thận. Khu trại bị bỏ không – thậm chí còn được dọn sạch trừ một ít người còn lại. Họ nhìn lên khi Arthas đi tới và chào anh. Để trả lời cho câu hỏi anh chưa kịp hỏi, một trong các đội trưởng là Luc Valonforth nói, “Xin thứ lỗi thưa hoàng tử. Cha của người đã triệu hồi quân đội theo yêu cầu của Lãnh Chúa Uther. Cuộc viễn chinh đã bị hủy bỏ.”
Mắt Arthas bỗng giật giật. “Cha ta – triệu hồi quân đội. Vì Lãnh Chúa Uther bảo người làm thế ư?”
Viên đội trưởng có vẻ lo lắng và nhìn Muradin rồi trả lời, “Vâng thưa hoàng tử. Chúng tôi muốn chờ người nhưng phái viên đã rất quyết tâm. Tất cả binh lính đã đi về phía tây nam để gặp đội tàu rồi. Trinh sát báo cáo rằng dọc đường có rất nhiều xác sống, nên họ đang bận bịu dọn đường qua rừng cây. Tôi chắc rằng người sẽ sớm đuổi kịp họ thôi, thưa hoàng tử.”
“Dĩ nhiên rồi,” Arthas nói và cố mỉm cười. Nhưng bên trong anh đang sôi sục lên. “Thứ lỗi cho ta một lát.” Anh đặt tay lên vai Muradin và đẩy ông lùn tới một nơi mà họ có thể nói chuyện riêng với nhau.
“Ờ, ta xin nhỗi, chèng trai à. Thật chán nãn khi gặp phãi-”
“Không.”
Muradin nháy mắt. “Sao zậy?”
“Ta sẽ không về sâu. Muradin à, nếu các chiến binh bỏ rơi ta, ta sẽ không bao giờ đánh bại được Mal’Ganis! Bệnh dịch này sẽ không bao giờ có thể ngăn chặn được!” Dù không chủ ý, những lời cuối cùng của anh vẫn quá lớn và khiến vài ánh mắt hiếu kỳ nhìn về phía họ.
“Chèng trai à, đó là cha anh đó. Nhà vua đó. Anh không thễ hủy bỏ lệnh đó được. Đó là tội làm phãn đó.”
Arthas khịt mũi. Có lẽ chính cha mình mới là đang phản bội thần dân của chính mình ấy chứ, anh nghĩ vậy những không hề nói.
“Ta đã tước quyền Uther rồi. Ta đã giải tán hội. Hắn không có quyền làm việc này. Phụ Vương đã bị lừa gạt rồi.”
“Chà zậy thì, anh sẽ phãi xữ lý chiện đó với ngài ấy khi anh quay zề. Khiến ngài ấy thấy được lý do mà anh vẫn luôn nói. Nhưng anh hông thễ hông tuân lệnh được.”
Arthas nhìn ông lùn một cách khó chịu. Lý do mà ta vẫn luôn nói ư? Sao cơ chứ, có phải tên lùn khốn kiếp này đang ngụ ý rằng Arthas này đang lừa hắn không? “Ông nói đúng về một chuyện. Người của ta rất trung thành với mệnh lệnh cấp trên. Họ sẽ không bao giờ từ chối về nhà nếu có mệnh lệnh trực tiếp.” Anh trầm tư vuốt cằm và mỉm cười khi một ý tưởng chợt nảy ra. “Đúng rồi! Chỉ cần chúng ta phá hủy con đường về nhà của họ. Không phải là họ không nghe lệnh – chỉ là họ không thể nghe lệnh được thôi.”
Cặp lông mày rậm rạp của Muradin nhíu lại. “Anh đang nói zì zậy?”
Để trả lời, Arthas nhe răng cười độc ác với ông và kể cho ông nghe kế hoạch của mình.
Muradin tỏ ra sửng sốt. “Như thế có quá đà quá hông hã Arthas?” Giọng điệu của Muradin cho anh thấy rằng ông thực sự nghĩ điều đó chỉ bé xíu, có khi còn chẳng đáng một “xíu” nữa. Arthas phớt lờ ông. Muradin đâu thấy những gì anh đã thấy; đâu có bị buộc phải làm những gì anh đã làm. Ông rồi sẽ hiểu thôi. Khi mà họ đối mặt với Mal’Ganis. Arthas biết rằng anh có thể đánh bại được tên chúa tể sợ hãi đó. Anh phải đánh bại hắn. Anh sẽ kết thúc bệnh dịch này, chấm dứt mối de dọa với thần dân của mình. Rồi việc tiêu diệt những xác sống kia sẽ chẳng khác gì một vấn đề thứ yếu có thể có phần phiền phức đôi chút khi so sánh với sự sống còn của cư dân Lordaeron.
“Ta biết nghe có vẻ quá dữ dội, nhưng phải như thế thôi. Đành phải thế.”
Vài tiếng sau, Arthas đang đứng trên Bãi Lãng Quên và nhìn cả đội tàu của mình đang bốc cháy.
Câu trả lời rất đơn giản. Binh lính của anh không thể lên tàu về nhà – không thể bỏ rời anh – nếu không còn tàu nữa. Và vậy nên Arthas đốt cháy tất cả chúng.
Anh đã đi xuyên qua khu rừng, thuê những lính đánh thuê vốn ban đầu đã giúp họ tiêu diệt lũ xác sống và giờ là để rưới dầu lên những con tàu gỗ và đốt cháy chúng. Ở tại vùng đất quanh năm lạnh giá và thiếu ánh sáng này, nhiệt độ tỏa ra từ những con tàu bốc cháy cực kỳ được đón nhận. Arthas đưa tay lên che mắt khỏi ánh sáng chói lòa từ nó.
Bên cạnh anh, Muradin thở dài và lắc đầu. Ông và những người lùn khác, nhưng người đang khẽ lẩm bẩm khi đứng nhìn đám cháy lớn, họ vẫn chưa chắc rằng đây liệu có phải là con đường đúng đắn hay không. Arthas khoanh tay trước ngực, phần lưng vẫn lạnh giá trong khi cả khuôn mặt và thân mình phía trước nóng bỏng bởi ngọn lửa, anh nghiêm mình đứng nhìn bộ khung rực cháy của một con tàu sụp đổ xuống với một tiếng động lớn.
“Khốn nạn Uther đã khiến ta phải làm việc này!” anh lẩm bẩm.
Anh sẽ cho người hiệp sĩ đó – người cựu hiệp sĩ đó thấy. Anh sẽ cho Uther, và Jaina, và cả cha anh thấy. Anh không hề trốn tránh trách nhiệm của mình, dù nó có đáng sợ hay tàn bạo thế nào. Anh sẽ trở về trong chiến thắng sau khi đã hoàn thành những việc phải làm – những việc khiến những kẻ yếu đuối phải co rúm lại không dám làm. Và nhờ anh, nhờ việc sẵn sàng gánh vác gánh nặng trách nhiệm của anh, dân tộc anh sẽ sống sót.
Tiếng lửa cháy trên những thớ gỗ tẩm dầu vào lúc đó lớn đến nỗi nó lấn át cả tiếng kêu tuyệt vọng của các binh lính khi họ xuất hiện.
“Thưa Hoàng Tử Arthas! Tàu của chúng ta!”
“Có chuyện gì xảy ra vậy? Làm sao chúng ta về nhà được đây?”
Ý nghĩ đó đã sôi sục trong đầu anh suốt vài giờ qua. Arthas biết người của anh sẽ rất kinh hoàng khi nhận ra họ đang bị mắc kẹt tại đây. Đúng là họ đã đồng ý sẽ đi theo anh, nhưng Muradin đã nói đúng. Họ đã nhận được mệnh lệnh của cha anh là hủy bỏ mọi mệnh lệnh anh giao cho họ. Và Mal’Ganis sẽ chiến thắng. Nhưng họ không thể hiểu được họ cần phải chấm dứt mối hiểm họa này đến như thế nào, giờ đây-
Mắt anh hướng về những lính đánh thuê mà anh đã thuê.
Sẽ chẳng ai nhớ đến chúng cả.
Mua được họ cũng sẽ bán được họ. Nếu ai đó trả tiền cho họ để giết anh, họ cũng sẽ làm thế cũng như khi sẵn sàng giúp đỡ anh. Quá nhiều người đã phải chết – những người tốt, những người cao quý, những người vô tội. Những cái chết vô nghĩa của họ đang gào lên đòi được trả thù. Và nếu binh lính của Arthas không đi theo anh bằng tất cả trái tim của mình, anh sẽ không thể chiến thắng.
Arthas không thể chịu đựng được điều đó.
“Nhanh lên các chiến binh!” anh hét lớn và nhấc cây búa lên. Nó không còn tỏa Ánh Sáng nữa; anh đã bắt đầu không trông chờ vào nó nữa. Anh chỉ vào những lính đánh thuê lúc này đang kéo những con thuyền nhỏ chở đầy hàng dự trữ vào bờ từ những con tàu bị cháy. “Lũ sinh vật sát nhân kia đã đốt cháy tàu của chúng ta và lấy đi mất con đường trở về của các anh! Nhân danh Lordaeron hãy giết sạch chúng đi!”
Và rồi anh xung phong.