Phần 4
Độ dài 3,244 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 12:39:01
SỰ MỞ RỘNG CỦA ARATHOR
2,700 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Sau khi triều đại của Vua Thoradin chấm dứt, nhiều thế hệ con người tiếp tục mở rộng quốc gia Arathor cả về kích thước và quyền lực. Nhiều người trong số những pháp sư con người đầu tiên đã dạy cho học trò về bí thuật. Trong vòng vài thập kỷ, số lượng pháp sư phù thủy ở Arathor đã tăng đột ngột.
Được các pháp sư mạnh mẽ bảo vệ khỏi những mối đe dọa của tự nhiên, những con người dám nghĩ dám làm lập nên nhiều căn cứ Arathi khắp những vùng đất ở tít biên cương. Một số chiếm lấy những đồng cỏ tươi tốt ở Đồng Đông, vùng đất từng bị loài troll cai quản. Số khác di cư tới Pháo Đài Alterac và cả những công sự nhỏ được xây dựng trong thời kỳ Chiến Tranh Troll. Những căn cứ đó sẽ dần phát triển thành những tiền đồn giao thương tấp nập.
Vùng đất màu mỡ được thèm muốn nhất nằm ở Trảng Tirisfal. Tại đây, người Arathi dựng nên một pháo đài để bảo vệ những trang trại khỏi loài linh cẩu nhân, chuột mỏ, và những dã thú nguy hiểm khác. Nhiều cựu chiến binh sống tại nơi này, nơi họ đặt tên là Lordaeron để vinh danh cho vị tướng quá cố Lordain.
Những người Arathi khác mở rộng tới vùng đất ven biển mang tên Gilneas, nơi họ xây dựng nên rất nhiều khu cảng lớn. Những thực dân này đánh bắt cá và bắt đầu giao thương với những nơi khác ở Arathor. Những thủy thủ liều lĩnh nhất trong số đó tiến vào vùng nước quanh Gilneas. Một thời gian sau, họ tìm thấy một hòn đảo lớn ở phía nam dồi dào mỏ kim loại và nhiều tài nguyên quý giá khác. Một số thủy thủ trong số đó ở lại đảo và lập nên một tiền đồn hải quân hùng mạnh tên là Kul Tiras.
Suốt nhiều thập kỷ, những thành phố đó tiếp tục phát triển và xây dựng nên tục lệ riêng biệt. Những người nắm quyền lực ở Strom thủ đô Arathor dần trở nên lo lắng rằng những căn cứ đó đã trở nên quá độc lập. Mặc dù các nhà cầm quyền cố duy trì kiểm soát trên toàn vương quốc thì cuối cùng nhiều thành phố vẫn dành được nhiều quyền tự trị. Ví dụ đầu tiên và đáng kể nhất trong số đó là tiền đồn giao thương Dalaran.
Thành lập tại ngay trung tâm Arathor, Dalaran nhanh chóng trở thành trung tâm buôn bán với lượng hàng hóa và sức ảnh hưởng rất lớn. Cư dân khắp Arathor kéo đến thành phố nhằm tìm kiếm sự giàu có và những cơ hội mới. Một trong những dân nhập cư đó là một pháp sư lỗi lạc và lập dị tên là Ardogan. Ông nhận được sự khâm phục của dân chúng Dalaran và được bầu làm người lãnh đạo.
Dưới chính quyền của Ardogan, Dalaran tiếp tục mở rộng quyền lực và cuối cùng phát triển thành một thành bang tự trị. Nó cũng trở thành nơi trú ẩn cần thiết nhất cho các pháp sư của Arathor – một lượng dân số mà toàn thể công dân của vương quốc càng ngày càng thấy ngờ vực và cảnh giác.
HỘI ĐỒNG TIRISFAL
2,680 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Sự phát triển hưng thịnh của Arathor nhờ một phần công lớn của các pháp sư và sự bảo vệ của họ. Dù vậy, sự ngờ vực không nói ra dành cho các phù thủy vẫn phổ biến trong đa số dân cư. Dần dần, sự mê tín và bất đồng tăng lên, gia tăng căng thẳng giữa những người sử dụng ma thuật và xã hội còn lại. Hầu hết pháp sư rời khỏi các thành phố trong sự tức giận khi bị soi mói bằng một thứ mà họ xem là sự hoang tưởng vô căn cứ.
Người nắm quyền Dalaran là Ardogan mời nhiều pháp sư bất bình trong số đó về thành phố của mình. Tại đó ông cam kết rằng họ sẽ được sống tự do khỏi những thành kiến. Nhiều pháp sư trong số đó đáp lại lời mời của Ardogan và định cư lại Dalaran. Khi nhóm phù thủy đầu tiên đến đó, họ quyết định sẽ tái xây dựng thành phố thành một trung tâm tri thức huy hoàng. Sử dụng sức mạnh to lớn của mình, các pháp sư mở rộng Dalaran cả về kích thước và khả năng. Họ dựng nên những ngọn tháp tỏa sáng khắp thành phố và xây dựng nhiều thư viện khổng lồ và những kho chứa những điều kỳ diệu về bí thuật.
Ardogan và những người mạnh mẽ nhất trong các pháp sư mới đến đó thành lập một pháp hội để cai quản thành phố mới đâm chồi này. Hội đồng cai trị này khuyến khích việc học hỏi thực tập nghệ thuật bí thuật. Khi tin tức từ Dalaran lan đi, pháp sư từ khắp Arathor bắt đầu xem đó là một biểu tượng của tự do và hi vọng.
Trong chỉ vài năm, Dalaran bùng nổ dân số. Dù cho chỉ một phần nhỏ cư dân có thể sử dụng bí thuật, sự bảo vệ của họ cho phép nền công nghiệp và thương nghiệp phát triển mà không bị trở ngại. Tội phạm gần như không tồn tại. Mối nguy hiểm của xứ hoang dã gần như bị lãng quên.
Nhưng việc thực hiện pháp thuật không kiểm suát này lại có một hậu quả nghiêm trọng.
Việc sử dụng ma thuật một cách bất cẩn bắt đầu xẻ nát kết cấu của thực tại tại đó. Các pháp sư Dalaran không ngờ rằng những luồng năng lượng bí thuật cuộn lên từ thành phố đã tràn vào xứ Hỗn Âm. Những dòng sức mạnh đó thu hút sự chú ý của những con quỷ thuộc Quân Đoàn Rực Lửa. Một số ít quỷ dữ lẻn vào thế giới thực, xâm nhập vào chính Dalaran. Dù cho những sinh vật đó khá yếu và thường đơn độc, chúng cũng đã gây hỗn loạn và khủng bố khắp thành phố yên bình.
Pháp hội cố gắng xử lý những con quỷ xâm phạm đó trong khi giữ bí mật về chúng với công chúng. Những người lãnh đạo thành phố càng ngày càng e sợ rằng nếu những cư dân mê tín biết được sự thật, họ sẽ sợ hãi và hoảng loạn. Cuối cùng pháp hội đi tìm sự giúp đỡ từ bên ngoài tường thành. Các pháp sư cai trị gửi yêu cầu khẩn cấp cho các thượng tiên xứ Quel’Thalas. Con người hi vọng rằng loài tiên với sự thông thái vô tận của mình, có thể biết cách xử lý sự xâm nhập bất ngờ của quỷ dữ.
Hội đồng cai trị Quel’Thalas là Hội Đồng Trăng Bạc ngay lập tức cử những pháp sư mạnh mẽ nhất của người thượng tiên đi điều tra. Họ phát hiện ra rằng chỉ có một số ít quỷ dữ đã tới thế giới thực, nhưng các pháp sư biết rằng đó mới chỉ là khởi đầu. Vấn đề sẽ trở nên tồi tệ hơn trừ khi pháp hội đặt ra giới hạn cho việc sử dụng ma thuật của con người.
Nhiều thủ lĩnh của Dalaran từ chối đề nghị của loài thượng tiên. Pháp sư tới với thành phố này bởi vì họ có thể được tự do thực hiện nghệ thuật bí thuật. Hạn chế họ sẽ gây ra nhiều tác động bất lợi. Nếu may mắn, hầu hết những pháp sư sáng giá nhất sẽ rời đi và tiếp tục nghiên cứu bí thuật ở một nơi nào đó. Tồi tệ hơn, nền kinh tế của cả Dalaran sẽ sụp đổ, châm ngòi cho một cuộc nổi loạn và phân tán các pháp sư đi khắp nơi. Dù cách này hay cách khác, việc sử dụng bí thuật vẫn sẽ tiếp tục, dù là trong hay ngoài tường thành Dalaran. Dù có chuyện gì xảy ra, mối đe dọa từ Quân Đoàn Rực Lửa sẽ luôn tồn tại.
Đồng ý rằng họ không thể ngăn cấm việc sử dụng ma thuật, Hội Đồng Trăng Bạc và pháp hội Dalaran thống nhất một giải pháp khác. Họ cùng nhau lập nên một hội bí mật để xử lý những con quỷ xâm lăng. Nhóm mới mở này sẽ họp tại một khu rừng bí mật ở Trảng Tirisfal để luận công việc, và rồi nó được gọi là Hội Đồng Tirisfal. Những thành viên danh giá của hội sẽ có trách nhiệm theo dấu và đánh đuổi lũ tay chân của Quân Đoàn ở bất cứ nơi đâu chúng được tìm thấy. Các pháp sư này sẽ ngấm ngầm dạy cho các pháp sư khác về mối nguy hiểm của việc làm phép bất cẩn.
NGƯỜI BẢO HỘ ĐẦU TIÊN
2,610 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Suốt nhiều thập kỷ, những thành viên đầu tiên của Hội Đồng Tirisfal thận trọng theo dấu và tiêu diệt bất cứ con quỷ nào họ tìm thấy. Khi đối mặt với những đối thủ mạnh mẽ đặc biệt, các thành viên hội đồng sẽ truyền năng lực của họ cho một cá nhân duy nhất, người sẽ là vỏ bọc cho sức mạnh của họ trong một khoảng thời gian ngắn.
Tăng cường sức mạnh cho một chiến binh duy nhất là một nghi thức nguy hiểm. Việc như vậy thường chỉ thực hiện trong những hoàn cảnh hiểm nghèo hiếm hoi. Các thành viên hội đồng phải ở gần đó để thực hiện nghi thức, khiến họ trở nên dễ bị tổn thương. Nguồn năng lượng khổng lồ của có nguy cơ tiêu diệt chính người chiến binh được chọn. Nhưng nếu họ sống sót, họ có thể áp đảo cả những tay chân hùng mạnh nhất của Quân Đoàn Rực Lửa. Bất kể rủi ro này, Hội Đồng Tirisfal vẫn sử dụng kỹ thuật tăng cường sức mạnh này đầy hiệu quả trong nhiều năm.
Nhưng mọi thứ thay đổi khi một tên chúa tể sợ hãi tên là Kathra’natir đột nhập vào Dalaran. Tên quỷ xảo quyệt này lảng vảng khắp các tòa tháp đẹp đẽ của thành phố, lan truyền thứ độc tố của hắn vào trái tim và trí óc của nhân dân. Những bệnh dịch tồi tệ xảy ra khắp Dalaran. Khi tác động của nó lan ra, một lớp màn hoang tưởng phủ kín lấy cả thành phố.
Trong khi điều tra việc này, Hội Đồng Tirisfal tìm ra và đối đầu với Kathra’natir. Những pháp sư sáng giá nhận ra mình bị áp đảo bởi con quỷ. Nhận thấy không còn cách nào khác, họ bắt đầu tăng cường sức mạnh cho một thượng tiên tên là Aertin Brighthand làm chiến binh. Aertin mang trong mình sức mạnh tổng hợp của cả hội đồng và lao vào Kathra’natir.
Đây là lúc Kathra’natir biến sức mạnh lớn nhất của hội đồng thành lợi thế cho hắn. Thay vì đối đầu trực tiếp với người chiến binh, con quỷ lại tấn công những thành viên của hội. Với sức mạnh của mình đang nằm trong tay Brighthand, họ không thể tự vệ. Đòn tấn công hắc ám của Kathra’natir phá vỡ kết nối giữa các thành viên hội đồng và Aertin. Việc này làm suy yếu sức mạnh của người chiến binh, cuối cùng ông bị hạ dưới tay con quỷ. Chỉ nhờ vào sự can thiệp liều lĩnh của một bán tiên trẻ tên là Alodi đã ngăn cản cả hội đồng khỏi bị tiêu diệt.
Hội đồng lo lắng tập hợp lại cho một trận chiến khác, nhưng lần này là những pháp sư độc lập mà không có bất cứ chiến binh nào cho họ tập trung sức mạnh. Kathra’natir khoái trá trước sự lộn xộn của hội đồng và dễ dàng ngăn trở kẻ địch.
Thất bại đó đập tan sự tự tin và hi vọng của Hội Đồng Tirisfal. Các pháp sư biết rằng họ không thể đánh bại được Kathra’natir khi chiến đấu riêng rẽ, giờ họ không còn có thể dựa vào nghi thức ban sức mạnh nữa.
Vào khoảnh khắc đen tối này, Alodi và các đồng đội tìm ra một phương thức mới để tập trung sức mạnh của họ. Các thành viên hội đồng không cần phải có mặt tại trận chiến nữa. Nhờ một nghi thức phức tạp, họ có thể ban cho ai đó một phần sức mạnh của mình vĩnh viễn. Alodi là người đầu tiên trải qua kỹ thuật thử nghiệm này. Khi nghi thức đã thành công, anh tuyên bố mình không phải là chiến binh của hội đồng mà là một Người Bảo Hộ.
Một Alodi mới được ban sức mạnh đối dầu và hạ gục Kathra’natir, đánh đuổi tên chúa tể sợ hãi về với những vực thẳm gào rú xứ Hỗn Âm. Được tôn lên làm người hùng, Alodi là Người Bảo Hộ Tirisfal đầu tiên. Anh sử dụng sức mạnh vĩ đại này để kéo dài tuổi thọ của mình, và trong một trăm năm anh tiếp tục săn đuổi lũ tay chân của Quân Đoàn. Cuối thế kỷ phụng sự của mình, Alodi tự nguyện từ bỏ sức mạnh của mình, chọn sống những ngày cuối cùng trong yên bình thanh thản.
Như vậy truyền thống Người Bảo Hộ bắt đầu. Cứ mỗi một thế kỷ, một pháp sư mới sẽ đứng lên hiến dâng bản thân mình để bảo vệ Azeroth. Người pháp sư được chọn gánh vác sức mạnh của hội đồng sẽ chứng minh sự khiêm tốn và ước muốn hòa bình của mình bằng cách từ bỏ sức mạnh vĩ đại của mình sau một trăm năm.
Suốt hơn một thiên niên kỷ, một kỷ nguyên thịnh vượng chưa từng có diễn ra khắp Azeroth. Dù cho xung đột và nỗi đau không thể bị xóa sổ hoàn toàn, những Người Bảo Hộ vẫn đảm bảo rằng không có con quỷ xâm lăng nào có thể hãm hại thế giới này. Khi những con người cao quý đó thực hiện cuộc chiến bí mật và cô độc của họ chống lại Quân Đoàn, Dalaran tiếp tục là một trong những trung tâm tri thức và nghiên cứu bí thuật cao nhất của thế giới.
LÒ SẮT VÀ SỰ THỨC TỈNH CỦA NGƯỜI LÙN
2,500 NĂM TRƯỚC SỰ KIỆN CÁNH CỔNG BÓNG TỐI
Xa tít phía nam Dalaran, hầm mổ Uldaman cổ xưa vẫn nằm đó trong im lìm u ám. Hàng thế kỷ trước, Ironaya và Vệ Thần Archaedas đã đi vào trạng thái ngủ đông. Nhiều đoản nhân máy từng trông coi các cổ máy ở Uldaman cũng đã rời đi sau khi bị tác động của lời nguyền xác thịt. Nhưng một số những tay chân máy móc trung thành vẫn ở lại. Cơ thể từng rất bền chắc của họ dần không chống chịu nổi sự phai tàn của thời gian. Họ ngã xuống và chết tới khi chỉ còn duy nhất một người còn lại.
Mặc dù đoản nhân máy duy nhất này cố gắng hết sức mình để duy trì Uldaman, hầu hết pháo đài cũng đã rơi vào tình trạng hỏng hóc. Và rồi lời nguyền xác thịt bắt đầu làm suy giảm cơ thể bằng kim loại của bà. Cuối cùng tác động đó biế bà thành một đoản nhân, và bà cảm thấy già cỗi gần chết. E rằng bà chẳng còn nhiều thời gian nữa, nữ đoản nhân đã giải phóng những thổ linh đang ngủ đông sâu trong Uldaman. Bà không thể chịu đựng nổi ý nghĩ rằng khi bà mất đi, họ sẽ mãi mãi bị bỏ rơi trong những căn phòng âm u của hầm mộ này.
Bằng hơi thở cuối cùng, nữ đoản nhân kích hoạt những phòng ngủ đông của các thổ linh. Những căn phòng đó rung động và sống dậy. Các titan-rèn ngủ trong đó thức dậy với thế giới mới… và với sứ mệnh mới.
Những thổ linh mới thức giấc đó nhận ra rằng mình đã thay đổi đột ngột. Lời nguyền xác thịt đã tác động và biến họ thành những sinh vật làm từ máu thịt – những sinh vật tự gọi mình là người lùn.
Vẫn chệnh choạng sau hàng năm trời say ngủ, những người lùn bước ra khỏi lâu đài Uldaman tàn tạ và tiến lên mặt đất. Họ bị thu hút về hướng tây, nơi một rặng núi đá cao sừng sững chọc thủng tầng mây. Giống như những đoản nhân rời Uldaman hàng thế kỷ trước, những người lùn buộc phải chiến đấu với những con thú hoang lảng vảng khắp vùng đất. Nhưng nếu các đoản nhân sử dụng tài khéo léo để áp chế những mối đe dọa đó, người lùn lại sử dụng sự bền bỉ cùng sức khỏe tự nhiên của mình. Cuối cùng họ tới được dãy núi họ đã nhìn thấy từ tít chân trời phía tay, và họ định cư tại vùng đất Dun Morogh tuyết phủ.
Mặc dù lời nguyền xác thịt đã tiêu giảm trí nhớ của họ, người lùn vẫn còn giữ được mối liên hệ mỏng manh với di sản titan-rèn của mình. Được truyền cảm hứng bởi những ký ức đó, họ đặt tên cho ngôi nhà mới của mình là Khaz Modan, nghĩa là “Dãy Núi của Khaz,” để vinh danh vị titan tạo hình Khaz’goroth. Người lùn vẫn giữ được sự yêu thích tự nhiên đối với việc tạc đá và khai mỏ. Họ đào sâu vào lòng ngọn núi của Khaz Modan và tạo nên một lò rèn khổng lồ. Quanh đó, người lùn xây dựng nên một thành phố đáng tự hào tên là Lò Sắt. Nơi đây sẽ trở thành cái nôi cho ngôi nhà mới của họ, một quốc gia vĩ đại và hùng mạnh trải dài sâu tít dưới dãy núi.
Khi người lùn bắt đầu ra ngoài khai mỏ tại cả dãy núi Khaz Modan và mở rộng đất đai, họ tìm thấy những người đoản nhân sống ở những hang động gần đó. Người dân Lò Rèn mê mệt trước sự khéo léo và hiểu biết về máy móc của những người họ hàng nhỏ bé này. Người lùn cũng cảm thấy một mối quan hệ họ hàng tự nhiên với người đoản nhân, dựa vào một phần lớn rằng họ cùng có chung tổ tiên titan-rèn.
Người lùn truyền đạt những hiểu biết về nghề tạc đá và xây dựng cho người đoản nhân, giúp họ đặt nền móng cho một thành phố kỳ vĩ về sau sẽ được gọi là Gnomeregan. Ngược lại, người đoản nhân dạy cho người lùn về khoa học kỹ thuật, tăng cường tính hiệu quả tiên tiến cần thiết cho Lò Sắt. Mặc dù đoản nhân và người lùn chủ yếu sống cách biệt nhau trong nhiều thế kỷ về sau, họ đã tạo nên một mối quan hệ không thể phá vỡ và sẽ trợ giúp lẫn nhau khi cần thiết.