Chương 19: Ngôi Nhà Mục Tiêu
Độ dài 4,288 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-03-18 10:15:03
Trans: Kouji
✫ ✫ ✫
Số 2 phố Hoa Thủy Tiên, thành phố Tingen.
Sau khi để lại giấy nhắn, Klein khóa cửa rồi sải bước về phía Leonard Mitchell đang đợi bên kia đường.
Mái tóc đen ngắn của Leonard đã dài hơn một chút so với tháng trước. Vì không được chăm sóc đúng cách nên trông nó rối bù.
Dù vậy, với gương mặt điển trai, đôi mắt xanh ngọc bích cùng khí chất thi sĩ vẫn giúp anh ta có một vẻ đẹp dị biệt.
“Quả nhiên, mặt đẹp thì để kiểu nào cũng được.”
Klein thầm mỉa, chỉ hướng phố Chữ Thập Sắt và hỏi: “Frye đang đợi chúng ta ở đó à?”
“Ừ.” Leonard chỉnh phần áo sơ mi không sơ vin, như thuận miệng hỏi: “Anh tìm được manh mối nào từ tư liệu không?”
Klein chống gậy bằng tay trái, bước dọc theo con đường và nói: “Không. Tôi không tìm được quy luật nào trong thời gian, địa điểm hay nguyên nhân tử vong cả. Anh biết đấy, những nghi lễ liên quan đến Tà thần hay ác ma phải tiến hành trong khung thời gian nhất định hoặc theo cách thức đặc biệt nào đó mới được.”
Leonard chạm vào khẩu súng đặc chế giấu dưới lớp áo sơ mi bên hông khi cất tiếng cười khẽ: “Điều đó không phải tuyệt đối. Theo kinh nghiệm của tôi, một số Tà thần hoặc có thể gọi là ác ma rất dễ thỏa mãn, chỉ cần Nó cảm thấy hứng thú với những gì sẽ xảy ra tiếp theo là được. Vả lại, tôi dám chắc rằng một phần trong các chết này là trường hợp bình thường. Chúng ta nhất định phải gạt phần đó sang một bên thì mới tìm được câu trả lời chính xác.”
Klein liếc sang anh ta: “Vậy nên đội trưởng mới yêu cầu chúng ta điều tra một lần nữa, để loại trừ những sự cố bình thường.
“Leonard này, cái cách anh mô tả cho tôi biết rằng anh rất có kinh nghiệm trong những vụ tương tự. Nhưng anh trở thành Kẻ Gác Đêm chưa được bốn năm, bình quân mỗi tháng chỉ gặp không quá hai trường hợp siêu phàm, mà đa số là những vụ đơn giản và dễ giải quyết.”
Klein luôn cảm thấy người đồng đội Leonard Mitchell có chút kỳ quái, thần bí. Anh ta không ngừng nghi ngờ anh, cho rằng anh rất đặc biệt mà còn hay tự lẩm bẩm một mình. Tính cách lúc thì kiêu ngạo, lúc thì tùy tiện, có khi lại trầm lặng.
Chẳng lẽ mình đã khiến anh ta cảm thấy mình là kỳ ngộ mà nhân vật chính trong mấy vở kịch hay gặp được à? Klein đã liên kết những kiến thức phong phú về phim ảnh, tiểu thuyết và phim truyền hình của bản thân với nhau để đưa ra một suy đoán sơ lược.
Trước thắc mắc ấy, Leonard cười đáp: “Tại anh còn trong giai đoạn huấn luyện chứ chưa tiến vào trạng thái Kẻ Gác Đêm thôi. Cứ sáu tháng một lần, Thánh Đường sẽ chỉnh lý những vụ án siêu phàm thành sách, cũng căn cứ vào sự khác biệt của mức độ bảo mật để xóa giảm một số chi tiết nhất định trong mỗi phiên bản khác nhau, sau đó phát cho từng thành viên tương ứng. Ngoài chương trình thần bí học, anh còn có thể nộp đơn xin đội trưởng cho phép tiến vào Cổng Chianese để mượn đọc những hồ sơ vụ án tương tự từng xảy ra trong quá khứ.”
Klein sửng sốt trước khi gật đầu bảo: “Đội trưởng chưa bao giờ đề cập chuyện này với tôi.”
Cho đến giờ anh vẫn chưa tiến vào Cổng Chianese lần nào.
Leonard cười khẽ: “Tôi tưởng anh biết rõ đội trưởng có phong cách thế nào rồi chứ. Không ngờ anh lại dại đến nỗi chờ ông ấy nhắc nhở.”
Đoạn, anh ta nói một cách đầy ẩn ý: “Chừng nào đội trưởng cái gì cũng nhớ, không quên gì hết thì lúc đó chúng ta sẽ cần đề cao cảnh giác đấy.”
Có nghĩa là mất khống chế? Klein trịnh trọng gật đầu rồi hỏi ngược lại: “Đây là phong cách riêng của đội trưởng sao? Tôi cứ nghĩ đó là vấn đề chung của ‘Kẻ Không Ngủ’.” Kiểu như thức đêm nhiều gây suy giảm trí nhớ.
“Đúng hơn thì đó là phong cách chỉ ‘Ác Mộng’ mới có. Sự đan xen giữa thực và mơ khiến họ không thể phân biệt đâu là thực, là thứ cần nhớ ký; đâu là giả, không cần đặt trong lòng…” Leonard định nói thêm gì đó. Nhưng hai người đã rẽ vào phố Chữ Thập Sắt, trông thấy “Người Nhặt Xác” Frye đang đợi ở trạm xe ngựa công cộng.
Frye đội mũ phớt tròn vành đen, mặc áo khoác mỏng cùng màu và xách một chiếc cặp da. Nước da tái nhợt đến nỗi làm người ta sợ rằng anh sẽ gục ngã bất cứ lúc nào. Khí chất lạnh lẽo âm u khiến những người chờ xe ngựa đều cách xa anh.
Họ gật đầu chào nhau trước khi lặng lẽ tập trung lại, cùng vượt qua tiệm bánh Sling, rẽ vào Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt.
Âm thanh ồn ào lập tức ập đến. Tiếng rao tới khàn cổ của những người bán canh hàu, cá áp chảo, bia gừng, trái cây các loại liên tục vang lên, khiến khách bộ hành bất giác giảm tốc độ.
Lúc này, đồng hồ điểm năm giờ, không ít người đã trở lại phố Chữ Thập Sắt. Hai bên đường bắt đầu đông đúc. Vài đứa trẻ lẫn trong đám đông, ném những cái nhìn hờ hững vào túi tiền của những người đi đường.
Klein từng ở khu tập thể gần đó, lại hay xuống đây để mua đồ ăn nấu sẵn rẻ tiền nên khá quen với tình huống này, bèn mở miệng nhắc nhở: “Cẩn thận đám trộm.”
Leonard cười bảo: “Không sao.”
Anh ta kéo áo sơ mi, chỉnh bao súng sao cho khẩu súng lục dưới thắt lưng lộ ra.
Những đôi mắt chằm chằm họ lập tức chuyển hướng nhìn. Người đi đường chung quanh cũng tự giác nhường đường.
Klein ngẩn người, nhanh chóng bắt kịp Leonard và Frye. Đồng thời, anh cúi thấp đầu, phòng ngừa khả năng bắt gặp người quen.
Benson và Melissa vẫn giữ liên lạc với một số hàng xóm cũ ở đây. Dù sao nhà mới của họ cũng không chuyển đi quá xa.
Ba người xuyên qua con phố đông đúc, rẽ vào Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt.
Người qua lại ở đây đều mặc quần áo cũ nát. Họ vừa cảnh giác, vừa hau háu nhìn những kẻ lạ lẫm ăn mặc gọn gàng đẹp đẽ mới xuất hiện, chẳng khác nào lũ kền kền háu mồi chực chờ tấn công bất cứ lúc nào. Song khẩu súng lục ổ xoay của Leonard đã ngăn chặn điều bất trắc xảy ra một cách hiệu quả.
“Chúng ta sẽ bắt đầu điều tra từ trường hợp tử vong vào đêm qua. Đầu tiên là bà Lauwis sống bằng nghề dán bao diêm.” Leonard lật ghi chú và chỉ vào một vị trí cách đó không xa, “Số 134, tầng một.”
Ba người tiếp tục tiến về phía trước. Những đứa trẻ trong bộ đồ rách rưới đang chơi đùa xung quanh nhanh chóng nấp bên vệ đường, quan sát họ bằng đôi mắt thơ dại, tò mò và sợ hãi.
“Nhìn tay chân chúng xem, khác nào que diêm đâu.” Leonard cảm thán, dẫn đường vào tòa nhà ba tầng số 134.
Đủ thứ mùi khác nhau xộc vào mũi Klein. Anh có thể lờ mờ nhận ra mùi khai của nước tiểu, mùi chua của mồ hôi, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi than và gỗ cháy.
Klein không thể không đưa tay lên bịt mũi. Đúng lúc này, anh trông thấy Beech Mountbatten đang đứng đợi họ.
Vị cảnh trưởng có bộ râu quai nón màu nâu nhạt phụ trách việc trị an ở ô phố quanh đây nhìn thanh tra Leonard với vẻ nịnh nọt.
“Thưa sếp, tôi đã bảo Lauwis chờ trong nhà rồi.” Beech Mountbatten cười nói bằng giọng hơi the thé đặc trưng.
Rõ ràng Beech không hề nhận ra Klein, người có vẻ tinh thần và ra dáng hơn trước rất nhiều. Hắn chỉ lo lấy lòng ba vị cấp trên, dẫn họ tiến vào nhà Lauwis.
Nhà Lauwis chỉ có một phòng đơn. Bên trong cùng có một chiếc giường hai tầng. Bên phải đặt một chiếc bàn để keo, giấy cứng, trong góc chất đầy giỏ đựng bao diêm. Bên trái là một cái tủ cũ kỹ được dùng để đựng quần áo và bộ đồ ăn.
Hai bên cửa để bếp than, bồn cầu và một ít than đá, củi. Giữa phòng có hai tấm nệm trải sàn bẩn thỉu. Trên đó là một người đàn ông đắp một chiếc chăn bông mục nát đang ngủ ngon lành. Nơi này chật chội đến nỗi gần như không có chỗ đặt chân.
Một người phụ nữ đang nằm ở tầng dưới chiếc giường tầng. Làn da lạnh toát, rõ ràng đã mất đi sinh mệnh.
Ngồi cạnh cái xác là một người đàn ông trạc ba mươi, mái tóc rối bù bết dầu, vẻ mặt lờ đờ và đôi mắt thất thần.
“Lauwis. Ba vị sĩ quan này muốn khám nghiệm tử thi và hỏi anh vài chuyện.” Beech Mountbatten hét lên, không mảy may bận tâm tới người đang ngủ trên mặt đất.
Người đàn ông uể oải ngẩng đầu lên, kinh ngạc hỏi: “Sáng nay kiểm tra với hỏi rồi còn gì?” Ông ta mặc đồng phục công nhân màu xanh xám đính đầy vụn vá.
“Bảo anh trả lời thì cứ trả lời đi, hỏi nhiều thế nhỉ!” Beech Mountbatten mắng đối phương trước khi quay sang mỉm cười với Leonard, Klein và Frye, “Thưa ngài, đây là Lauwis. Thi thể trên giường chính là vợ anh ta. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy nguyên nhân cái chết là do một cơn bạo bệnh.”
Klein và hai người còn lại kiễng chân, bước qua khe hở giữa tấm nệm và giường.
Frye có mũi cao, đôi môi mỏng và khí chất lạnh lùng không nói gì, chỉ nhẹ nhàng vỗ vai Lauwis, ra hiệu cho ông ta nhường chỗ để mình kiểm tra thi thể.
Klein liếc nhìn người đàn ông đang ngủ dưới đất, bối rối hỏi: “Đây là ai?”
“Người… người thuê trọ của tôi.” Lauwis gãi đầu, “Mỗi tuần chúng tôi phải trả 3 Saule 10 Penny cho phòng này. Mà tôi chỉ là công nhân bến tàu, vợ làm hộp diêm. Mỗi rổ hơn 130 hộp chỉ kiếm được 2 và ¼ Penny. Chúng tôi… chúng tôi còn có con. Thế nên, tôi chỉ có thể cho người khác thuê chỗ trống. Mỗi tấm nệm chỉ cần 1 Saule 1 một tuần…”
“Một người thuê trọ khác của tôi làm công việc hỗ trợ bố trí phông nền ở rạp hát, toàn mười giờ tối mới về. Thế nên tôi bán quyền sử dụng nệm vào ban ngày cho anh này. Anh ấy là bảo vệ rạp hát vào buổi tối. Chỉ cần trả 6 Penny mỗi tuần…”
Nghe đối phương lải nhải giới thiệu, Klein không khỏi liếc nhìn đống rổ trong góc.
Mỗi rổ có hơn 130 hộp mới kiếm được 2,25 Penny, tức là khoảng hai pound bánh mì đen. Một ngày họ có thể làm được bao nhiêu rổ chứ?
Leonard nhìn quanh rồi hỏi: “Trước khi mất, vợ ông có hành động gì lạ không?”
Lauwis từng trả lời câu hỏi tương tự bèn lập tức chỉ vào ngực trái: “Từ tuần trước, không, có lẽ là từ hai tuần trước, cô ấy nói rằng mình cảm thấy buồn bực ở chỗ này, không thể thở được.”
Dấu hiệu bệnh tim? Một cái chết bình thường sao? Klein ngẫm nghĩ trước khi chen ngang: “Ông có tận mắt chứng kiến lúc bà ấy qua đời không?
Lauwis nhớ lại: "Mỗi khi mặt trời lặn, cô ấy sẽ ngừng làm việc. Tại nến và dầu hỏa đắt hơn bao diêm nhiều… Cô ấy bảo cô ấy rất mệt, muốn tôi chăm lũ trẻ để cô ấy nghỉ ngơi một lát. Lúc tôi quay sang nhìn cô ấy, cô ấy đã… đã tắt thở.”
Khi nói ra điều đó, Lauwis không thể che giấu nỗi đau buồn và bi thương trong lòng được nữa.
Klein và Leonard lần lượt hỏi thêm một vài vấn đề. Tuy nhiên họ không tìm thấy bất kỳ yếu tố bất thường, siêu nhiên nào trong vụ việc.
Hai người đưa mắt nhìn nhau. Leonard mở miệng: “Ông Lauwis. Phiền ông ra ngoài đợi vài phút. Chúng tôi muốn tiến hành khám nghiệm tử thi chuyên sâu. Tôi cho rằng ông sẽ không muốn nhìn quá trình đó.”
“Vâng… Vâng.” Lauwis cuống quýt đứng lên.
Beech Mountbatten bước sang một bước, đá tỉnh người khách trọ đang ngủ trên nệm, lôi đối phương ra khỏi phòng trước khi tự giác đóng cửa và đứng canh ngoài cửa.
“Thế nào?” Leonard chuyển sang Frye.
“Chết do bệnh tim.” Frye khẳng định khi rút tay về.
Klein cân nhắc một chút, lấy ra một đồng ½ Penny, định làm một đánh giá nhanh chóng.
“ ‘Căn bệnh tim khiến bà Lauwis qua đời có yếu tố siêu nhiên?’ Không, nghĩa câu này quá hẹp, đáp án rất dễ gây hiểu lầm. ‘Yếu tố siêu nhiên đã khiến bà Lauwis qua đời.’ Cái này được đấy!” Anh lẩm bẩm, mau chóng xác định câu bói toán.
Trong lúc mặc niệm, anh bước đến bên xác bà Lauwis với đôi mắt tối đen, còn ngón tay thì búng đồng xu lên.
Keng… Âm thanh vang vọng khắp phòng. Đồng xu màu đồng thau quay một vòng trong không khí trước khi rơi thẳng vào lòng bàn tay anh.
Lần này, chân dung quốc vương nằm ngửa.
Điều này cho thấy cái chết của bà Lauwis quả thực bị gây ra bởi yếu tố siêu nhiên!
“Có siêu tố siêu nhiên…” Khi màu mắt trở lại bình thường, Klein nghiêng đầu về phía Leonard cùng Frye.
Leonard bỗng bật cười: “Chuyên nghiệp phết. Không hổ là ‘Nhà Bói Toán’.”
“Anh đang định ám chỉ gì đấy.” Klein nhạo báng không thành lời.
Frye mở cặp da, lấy ra con dao bạc cùng các vật dụng khác. Anh nói sau vài giây im lặng: “Thi thể nói rằng bà ấy thực sự chết vì bệnh tim đột ngột. Anh biết cách nào có thể bói ra tình hình chi tiết hơn không?”
Klein nghiêm túc gật đầu: “Tôi có thể thử kết hợp bói mộng với nghi lễ ma thuật. Biết đâu có thể thu được gì đó từ Linh tính còn sót lại của bà Lauwis.”
Frye lãnh đạm lùi lại hai bước: “Anh thử đi.”
Anh ta quay đầu nhìn Klein một chút, bỗng cảm thán bằng giọng đều đều: “Anh càng ngày càng quen với tình huống kiểu này nhỉ.”
“Tôi đâu có muốn…” Klein nghĩ thầm, kích động đến muốn khóc. Anh lấy ra lọ nước cất thơm, tinh dầu và bột thảo dược cần dùng, nhanh chóng hoàn thành việc bố trí nghi lễ thông linh.
Đứng ở trung tâm bức tường linh tính, anh đọc thầm tôn danh Nữ thần Đêm Đen và cầu nguyện bằng tiếng Hermes.
Chẳng mấy chốc, gió cuốn lấy anh, ánh sáng mờ dần.
Klein với đôi mắt đen tuyền chớp cơ hội đó và lặp đi lặp lại câu bói toán:
“Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis.
“Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis.”
…
Anh bước vào trong mộng, “nhìn” thấy linh hồn trong suốt mờ mịt đang bồi hồi bên thi thể.
Sau đó, anh chạm cánh tay phải hư ảo vào linh tính còn sót lại của bà Lauwis.
Trong khoảnh khắc ấy, ánh sáng và bóng tối nổ tung trước mắt anh. Một vài cảnh tượng thoáng hiện -----
Một người phụ nữ gầy guộc, tiều tụy, mặt bủng da chì ăn mặc rách rưới đang mải miết dán bao diêm.
Bà đột nhiên dừng động tác, đưa tay che ngực;
Bà đang nói chuyện với hai đứa con của mình;
Cơ thể bà lung lay, há miệng thở dốc;
Khi đi mua bánh mì đen, ai đó đột nhiên vỗ bà một cái;
Triệu chứng bệnh tim xuất hiện hết lần này đến lần khác;
Bà cảm thấy rất mệt, nằm xuống giường và không bao giờ tỉnh lại.
Klein cẩn thận quan sát từng chi tiết, cố gắng tìm ra dấu hiệu tồn tại của các yếu tố siêu nhiên.
Nhưng cuối cùng, anh vẫn không tìm được bất kỳ manh mối rõ rệt nào.
Cảnh tượng mờ ảo vỡ tan. Klein rời khỏi giấc mộng, trở về thực tại.
Anh phá vỡ bức tường linh tính, nói với Leonard có vẻ thích thú và Frye đang chờ đợi: “Không thấy biểu tượng trực tiếp. Hầu hết các cảnh tượng đều cho thấy bà Lauwis đã mắc bệnh tim từ lâu. Cảnh khác biệt duy nhất là hình ảnh bà Lauwis bị ai đó vỗ vào lưng. Bàn tay đó rất thon thả và trắng nõn, dường như thuộc về một người phụ nữ.”
“Trừ phi rơi vào đường cùng, gia đình kiểu này sẽ không bao giờ tới gặp bác sĩ. Ngay cả khi họ chỉ việc xếp hàng để được chữa bệnh miễn phí ở tổ chức y tế từ thiện chăng nữa. Thời gian không phải thứ họ phung phí nổi. Một ngày không làm việc có thể đồng nghĩa với việc không có thứ gì bỏ bụng vào hôm sau.” Leonard thở dài với giọng điệu sầu não thơ mộng.
Frye liếc nhìn cái xác trên giường, nhẹ nhàng thở dài.
Trước khi Klein mở miệng, Leonard cấp tốc điều chỉnh trạng thái và tự hỏi: “Ý anh là yếu tố siêu nhiên xuất hiện vào lúc bà Lauwis bị vỗ một cái, từ một cánh tay thon thả của một quý cô hoặc quý bà nào đó?”
Klein gật đầu trả lời: "Đúng thế, nhưng đây chỉ là cách diễn giải của tôi thôi. Kết quả bói toán thường rất mơ hồ." Cuộc thảo luận đến đây là kết thúc. Anh và Leonard lùi về hai đầu tấm nệm, để Frye có thể lấy các dụng cụ kiểm tra từ cặp da ra và kiểm tra một lần nữa.
Một lúc sau, Frye cất gọn đồ đạc, dọn dẹp và che đậy những việc đã làm rồi quay đầu lại: “Nguyên nhân cái chết là bệnh tim tự nhiên đột phát. Không nghi ngờ.”
Nghe kết luận ấy, Leonard đi tới đi lui, thậm chí còn bước tới cạnh cửa, hồi lâu mới lên tiếng: “Tạm thời như thế đã. Chúng ta hãy đến trại tế bần ở khu Tây xem có thể tìm ra manh mối nào không, liệu chúng có kết nối với nhau không.”
“Chậc, chỉ còn cách này thôi.” Klein giữ những nghi ngờ trong lòng và gật đầu đồng ý.
Frye cầm cặp lên, nửa đi nửa nhảy qua hai tấm nệm, tránh giẫm lên chăn của người khác.
Leonard mở cửa, bước ra đầu tiên và nói với Lauwis cùng người thuê nhà: “Hai người có thể vào nhà rồi.”
Klein suy nghĩ một chút rồi nói thêm: "Đừng vội hạ táng. Ông hãy đợi thêm một ngày. Biết đâu chúng tôi sẽ cần kiểm tra kỹ lưỡng hơn.”
“Vâng… Vâng, sĩ quan.” Lauwis hơi gập người, vội vàng trả lời. Ông nói với vẻ chết lặng và mờ mịt, “Thực ra… Thực ra tôi tạm thời cũng không có tiền để chôn cất cô ấy. Tôi phải tiết kiệm mấy ngày nữa… Cũng may… Cũng may là thời tiết bắt đầu trở lạnh.”
Klein kinh ngạc thốt lên: “Ông định giữ thi thể trong phòng mấy ngày sao?”
Lauwis gượng cười đáp: “Ừm, cũng may… cũng may thời tiết bắt đầu trở lạnh. Buổi tối, tôi có thể để thi thể lên bàn, lúc ăn sẽ để bế cô ấy lên giường...”
Ông ta còn chưa nói hết câu, Frye đã xen ngang: “Tôi để lại tiền mai táng cạnh vợ ông đấy.”
Frye ném ra những lời đó với vẻ lạnh nhạt, phớt lờ vẻ mặt kinh ngạc cùng những lời cảm tạ rối rít từ Lauwis khi bước nhanh về phía cổng khu tập thể.
Klein theo sát phía sau, đầu nghĩ mãi về một vấn đề: Nếu thời tiết vẫn nóng như hồi tháng 6 tháng 7 thì Lauwis sẽ làm gì với thi thể của vợ mình? Tìm một đêm nào đó thật tối, gió thật mạnh rồi lén lút ném xác xuống sông Tussock hay sông Hoy? Hoặc tùy tiện đào một cái hố ở đâu đó rồi chôn kỹ?
Klein biết luật “nhất định phải được chôn cất ở nghĩa trang” đã được lập cách đây hơn một nghìn năm, vào cuối Kỷ nguyên trước. Bảy Đại Giáo Hội và hoàng tộc các nước đã chuyên môn chế định luật này để giảm thiểu và loại bỏ thủy quỷ, thây ma và oan hồn.
Biện pháp cụ thể là các nước cung cấp đất miễn phí. Mỗi giáo hội phụ trách canh gác, tuần tra. Họ chỉ thu một khoản phí nhỏ cho việc hỏa táng, chôn cất và trang trải chi phí lao động cần thiết.
Ngay cả như vậy, những người nghèo thực sự cũng không đủ khả năng chi trả cho điều đó.
Ba kẻ Gác Đêm rời khỏi số 134 Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt và tạm biệt Beech Mountbatten. Họ lặng lẽ rẽ sang hướng trại tế bần khu Tây trên con phố gần đó.
Vừa đến nơi, Klein đã trông thấy một dòng người xếp hàng rất dài, nối tiếp nhau, chen chúc nhau.
“Chỗ này có đến hơn một trăm, không, gần hai trăm người.” Anh ngạc nhiên lẩm bẩm. Đôi mắt đảo qua những người xếp hàng mặc quần áo cũ nát, vẻ mặt chết lặng và thỉnh thoảng lo lắng nhìn về phía cửa trại tế bần.
Frye giảm tốc độ, nói với sắc mặt lạnh lùng và âm trầm: “Số lượng người nghèo vô gia cư mà mỗi trại tế bần có thể tiếp nhận được mỗi ngày là có hạn. Họ chỉ có thể chọn theo thứ tự xếp hàng. Tất nhiên, trại tế bần sẽ có cách xác định, không để cho những người không đủ điều kiện tiến vào.”
“Suy thoái kinh tế trong mấy tháng gần đây cũng đóng góp một phần vào việc này…” Leonard cảm thán.
“Những người xếp hàng mà không có được danh ngạch thì sao, tự tìm biện pháp?” Klein vô thức hỏi.
“Họ có thể đến trại tế bần khác để tìm vận may. Các trại tế bần thường có giờ mở cửa khác nhau. Tuy nhiên, ở đó cũng sẽ có một hàng dài, có người chờ đến hai giờ chiều.” Frye dừng lại một lát, “Hầu hết những người còn lại phải nhịn ăn một ngày. Điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ mất khả năng tìm việc, rơi vào vòng luẩn quẩn ấy cho đến khi chết. Càng ngày sẽ càng có nhiều người gặp tình cảnh tương tự. Những người không chịu nổi sẽ từ bỏ việc giữ gìn sự lương thiện…”
Klein im lặng vài giây rồi thở dài: “Báo chí không bao giờ cho đăng những chuyện này. Frye, hiếm khi tôi mới thấy anh nói nhiều như vậy.”
“Tôi từng làm mục sư ở trại tế bần của Nữ thần.” Frye vẫn giữ thái độ lạnh băng.
Ba người mặc quần áo chỉnh tề dễ dàng tiến gần đến cổng trại tế bần khu Tây. Sau khi đưa giấy chứng nhận cho người gác cổng đang ngạo nghễ đánh giá những người xếp hàng, họ được dẫn vào bên trong trại.
Trại tế bần được cải tạo từ một nhà thờ cũ. Sảnh làm lễ phủ đầy nệm và võng, mùi mồ hôi đặc quánh quyện với mùi chân thối bốc lên từ mọi ngóc ngách.
Có rất nhiều người nghèo vô gia cư ở trong và ngoài sảnh. Một số vung búa đập đá, một số tách sợi dây thừng cũ. Không ai nhàn rỗi.
“Nhằm ngăn người nghèo phụ thuộc quá nhiều vào trại tế bần và trở thành những kẻ vô lại, « Luật Tế Bần » ban hành năm 1336 quy định rằng mỗi người nghèo chỉ được ở trong trại tế bần tối đa năm ngày. Quá thời gian đó sẽ bị đuổi đi. Trong năm ngày này, họ sẽ phải làm việc, chẳng hạn như đập đá hoặc tách sợi dây thừng. Đây cũng là công việc mà những tên tội phạm trong khám phải làm.” Frye giải thích với Klein và Leonard với gương mặt vô cảm.
Leonard mở miệng, cuối cùng nói bằng giọng không biết là mỉa mai hay trần thuật: “Rời trại này thì vẫn có thể tới trại khác. Tất nhiên là chưa chắc đã được vào lại. Chà, có lẽ trong mắt một số người thì người nghèo chẳng khác nào tội phạm cả.”
“Tách sợi dây thừng?” Klein hỏi sau một lúc im lặng.
“Sợi trong dây thừng cũ là chất liệu tốt để bịt kín khe hở trên thuyền.” Frye dừng bước trước vết cháy đen trên mặt đất.
Vài phút sau, viện trưởng trại tế bần và mục sư chạy tới. Hai người đàn ông ấy khoảng chừng bốn mươi tuổi.
“Đây chính là nơi Salus phóng hóa, cuối cùng chỉ thiêu chết chính mình?” Leonard hỏi, chỉ vào dấu vết trên mặt đất.
Viện trưởng trại tế bần là một người đàn ông có vầng trán rộng và hơi lồi. Đôi mắt xanh của ông liếc qua khu vực thanh tra Mitchell chỉ và gật đầu khẳng định: “Đúng thế.”
(đang cập nhật)