Chương 14
Độ dài 7,316 từ - Lần cập nhật cuối: 2024-12-28 20:30:07
Ả hồ ly suy nghĩ trong lo lắng và hoang mang. Tại sao mọi chuyện lại thành ra như thế này?
Mọi thứ lẽ ra đã rất suôn sẻ. Sau khi suýt bị những kẻ mang hình hài con người nhưng lại mang sức mạnh phi nhân loại giết chết, ả buộc phải sử dụng yêu thuật để tách các mảnh linh hồn của mình ra thành các phân thân để cố giữ lấy tính mạng bản thân.
Đó là một thuật pháp mà chỉ những hồ ly cấp cao hoặc các yêu quái có trí tuệ cao, tinh thông thuật pháp, và quan trọng nhất là sở hữu sức mạnh vượt trội mới có thể thực hiện được. Những con yêu quái tầm thường không tự lượng sức mình nếu dùng thuật này, chúng có khả năng sẽ tự xé nát linh hồn của chính mình, và nếu tạo ra quá nhiều bản thể, sức mạnh của chúng sẽ suy giảm đáng kể, có khi còn dẫn đến con đường của sự tự diệt. Việc tự nguyện phân tách bản thân là một hành động mà chỉ những Đại Yêu mới dám thực hiện.
Sau khi phân tách thành hàng chục phân thân, ả bắt đầu lẩn trốn, tìm cách phục hồi sức mạnh của mình bằng cách đi ăn thịt con người. Dù một số phân thân của ả đã bị tiêu diệt, nhưng đó chỉ là mấy phân bản tầm thường, không đáng nói. Tổn thất đối với ả ta chỉ là chút ít, không đáng lo ngại. Các phân thân sau đó sẽ tái hợp, và từng chút một giúp ả khôi phục lại sức mạnh vốn có của mình.
May mắn thay, vì nơi này là kinh đô, là nơi có không ít người thường mang chút ít linh lực, dù rất yếu ớt. Nhưng đối với ả ta hiện tại, thì những linh lực dù cho nhỏ nhoi ấy cũng là quá đủ rồi. Việc đối đầu với những kẻ sở hữu linh lực có thể chiến đấu là một rủi ro quá lớn.
Mấy tên trừ yêu sư không có tên tuổi, thiếu cả kinh nghiệm lẫn trải nghiệm, là một món mồi béo bở đối với ả lúc này.
Phần lớn bọn chúng xuất thân từ tầng lớp thấp hèn— nông dân nghèo hoặc gia nhân— may mắn sở hữu chút linh lực, lại trở nên tự mãn về khả năng của mình. Vì đã nếm trải sự khắc nghiệt của việc phục vụ dưới trướng các trừ yêu sư khác, chúng bắt đầu chọn con đường lén lút, bất hợp pháp, tự học linh thuật một cách nửa vời. Thế nhưng, bọn chúng lại chẳng hiểu gì về sự đáng sợ của yêu quái, lại càng không biết cách để đối phó khi gặp yêu quái trong thực tế. Những kẻ này, khi tìm kiếm nguyên liệu để thực hiện các bùa chú hay lời nguyền, đều dễ dàng bị rơi vào bẫy của ả hồ ly. Với việc chỉ cần sử dụng những phân thân là tiểu yêu hoặc ấu yêu làm mồi nhử, và dụ bọn trừ yêu sư không có năng lực đến, rồi chỉ cần vài trung yêu xuất hiện, thì tất cả bọn chúng cứ như vậy mà đều bị ả giết.
Bằng cách này, ả ta đã thịt được không dưới mười tên rồi.
...Trong số chúng có một kẻ, khi van xin tha mạng, đã cung cấp thông tin về một đoàn thương nhân. Đó quả là một vận may hiếm có. Hàng hóa của đoàn thương nhân đó hẳn sẽ là thứ mồi ngon béo bở để ả gia tăng sức mạnh. Với việc đoàn thương nhân được bảo vệ bởi đám khuân vác vô dụng, còn đám hộ vệ, tuy có chút rắc rối, nhưng chỉ cần lấy số lượng đè chất lượng là xong, thì việc tiêu diệt toàn bộ chẳng phải là điều bất khả thi. So với lũ trừ yêu sư trong thành, đám thương nhân này chỉ là mấy tên tầm thường, chúng quá phù hợp đối với ả.
Biết được điều đó đã làm ả ta có chút vui vẻ, có vẻ ông trời đã ban cho ả cơ hội này. Đương nhiên, tên tiết lộ thông tin này cho ả rồi cũng bị ăn thịt thôi, theo cách thức mà ả yêu thích nhất.
Phải, nếu ả ta có thể “thịt” hết đám thương nhân đó cùng hàng hóa của bọn chúng, sức mạnh của ả sẽ được phục hồi đáng kể. Nếu điều đó xảy ra, thì giờ đây, ả đã...! Nhưng…
“Khốn kiếp, lũ khỉ chết tiệt!!”
Gần kinh đô, từ cánh rừng nơi có thể nhìn bao quát cả thành phố, một con đại hồ ly với bốn chiếc đuôi xòe ra đang rít lên. Bao quanh nó là hơn chục con hồ ly khác với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Những con yêu này đều trông nhỏ hơn so với chủ nhân của chúng, đuôi cũng chỉ có một, nhiều lắm là hai chiếc.
“Grrrr...!”
Con hồ ly khổng lồ rên rỉ trong tư thế quằn quại. Dù bản tính của chúng vốn khá nhạy cảm với đau đớn, nhưng lần này vết thương lại đặc biệt nghiêm trọng. Chẳng ai ngờ được rằng ả ta lại bị đả thương đến mức này...
“Grrr... Vết cắt này không lành lại... Hơn nữa... ả đàn bà đó... Dám làm hỏng mắt ta!!!”
Vết thương do tên đầy tớ đeo mặt nạ gây ra— chỉ là một đường chém nông từ con dao găm, nhưng cho đến giờ thì nó vẫn chưa lành, máu vẫn liên tục rỉ ra từ vết thương. Đó hẳn là một thứ vũ khí đặc chế chuyên đối phó với yêu quái, được luyện chế kỹ lưỡng, ngấm đầy linh lực và các loại chú ngữ. Dù chỉ là một vết thương nhỏ nhưng nó lại khiến cho ả đau đớn đến tận bây giờ, thật đáng căm phẫn!
Và còn đáng căm phẫn hơn nữa là cú ném đá đã nghiền nát hết nửa phải hộp sọ của ả ta. Dù viên đá có vẻ đã được cường hóa, bản thân nó không chứa đựng chút linh lực nào— chỉ đơn thuần là một hòn đá. Ấy thế mà nó lại phá hủy hoàn toàn con mắt phải của ả. Dù máu ở vết thương này đã ngừng chảy, nhưng mọi chuyện cũng chẳng tốt đẹp gì. Ngay lúc này đây, cơn đau đầu dữ dội như muốn nổ tung hộp sọ cùng cảm giác khó chịu làm ả chỉ muốn nôn hết mấy thứ đã ăn ra ngoài.
“Ả khốn nạn... khốn nạn... khốn nạnnn...!!! Dám làm nhục ta đến mức này... Ta không tha, tuyệt đối không tha!!! Đợi đấy, rồi sẽ đến lúc mà ta sẽ dùng chính mấy viên đá mà nghiền nát con mắt phải— không, cả hai con mắt của bọn ngươi!!!”
Những lời rít lên đầy oán hận tuôn ra từ miệng con hồ ly, mang theo nỗi ác hận ngút trời. Nhưng đồng thời, ả cũng tự hiểu rằng những lời này chẳng qua chỉ là sự hậm hực của kẻ bại trận. Là một hồ ly, ả ta sở hữu trí tuệ vượt xa những yêu quái, quái vật tầm thường khác vốn chỉ hành động theo bản tính. Chính vì sự thông minh đó, mà ả đã không lao thẳng vào nội thành để tấn công hoàng cung ngay sau khi phân tách bản thân. Thay vào đó, ả quyết định chọn một phương án cẩn thận hơn: ẩn mình tại khu phố mới, âm thầm tấn công những tên vô tình lạc vào lãnh địa của ả, và từ đó tích lũy sức mạnh cho bản thân một cách từng chút một.
...Dù sao, hồ ly từ lâu đã nổi tiếng là những sinh vật thù dai, không bao giờ quên được mối thù của mình.
“Lũ khốn trong thành, ta đã nghĩ chúng sẽ không ra tay nếu ta chỉ náo loạn chút ít ngoài thành... nhưng... khốn kiếp! Đã đến nước này rồi thì đành phải chịu thôi. Lẽ ra ta muốn đợi đến khi mình đã lấy lại được thêm chút sức mạnh, nhưng nếu cứ tiếp tục thế này, thì tốt hơn hết là phải làm việc đó càng nhanh càng tốt vậy!”
Ngay sau đó, con đại hồ ly đứng bật dậy— và lập tức ngoạm lấy đầu một con yêu khác đứng gần nhất. Dù con hồ ly bị tấn công cố giãy giụa, nhưng nó không thể chống lại những chiếc răng sắc nhọn đã đâm sâu vào cơ thể. Chỉ sau vài nhát cắn, nó đã hoàn toàn chết trong vòng chưa đầy mười giây.
Mấy con yêu còn lại sững sờ trong thoáng chốc. Nhưng ả hồ ly vừa ăn thịt đồng loại mình, lại chẳng bận tâm đến chúng. Phần hộp sọ bị lõm ở nửa mặt phải của ả từ từ hồi phục lại, vết thương từ đó mà cũng dần biến mất, để lộ ra làn da mới. Đồng thời, một chiếc đuôi khác của ả cũng được mọc ra, nâng tổng số đuôi của con hồ ly lên thành năm chiếc.
“Ngạc nhiên gì chứ? Chúng ta vốn từ cùng một thể mà ra. Hơn nữa, ta là kẻ gần nhất với bản thể chính. Nếu vậy thì việc hấp thụ các ngươi để nhanh chóng hồi phục lại vết thương, và cũng như là sức mạnh vốn có của bản thân thì cũng là điều hiển nhiên, điều này chẳng có gì là lạ, đúng không?”
Giọng nói đầy thản nhiên vang lên từ con hồ ly, như thể việc ăn thịt đồng loại với ả là điều hoàn toàn tự nhiên. Năm chiếc đuôi của nó khẽ vung lên, và chỉ trong chớp mắt, cái đầu của ba con đứng gần ả liền không cánh mà bay.
Những con hồ ly còn lại hoảng sợ rú lên một tiếng thảm thiết, cụp tai, xõa đuôi, run rẩy, và quỳ rạp xuống đất.
Tiếng nhai và nghiến răng ken két, tiếng xương thịt bị nghiền nát vang vọng khắp khu rừng. Con hồ ly ăn thịt ba đồng loại của ả, và lại có thêm một chiếc đuôi khác được mọc thêm, nâng tổng số đuôi của ả lên thành sáu.
“...Xem ra vậy là được rồi nhỉ?”
Những con yêu may mắn không bị ăn thịt ngẩng đầu lên khi nghe được giọng nói vang lên như thể tiếng chuông ngân, âm thanh ấy vừa êm dịu những cũng rất tàn nhẫn. Đứng trước mặt chúng là một thiếu nữ cao ráo với mái tóc bạc lấp lánh, khoác trên mình bộ kimono đầy uy nghiêm. Đôi môi nàng vương vết máu đỏ tươi, và những ngón tay trắng muốt tao nhã đưa lên lau đi trước khi liếm nhẹ, như thể đang thưởng thức dư vị còn sót lại sau bữa tiệc.
“Thế thì... đã đến lúc đi đón nó rồi, nhỉ? Đón lấy người đồng đội của chúng ta, cốt lõi của chúng ta, ký ức cổ xưa nhất của chúng ta… Dù thật đáng ghét và kinh khủng.”
Lời nói cất lên, kèm theo đó là đôi môi của ả hồ ly cong lên một cách quỷ dị, như muốn xé toạc khuôn miệng của ả, để nở một nụ cười có phần ghê rợn.
“Dẫu cho đó có là thứ thất bại, một đứa con hoang bị ruồng bỏ của chúng ta.”
Giọng nói của ả vang lên, vừa tàn nhẫn, vừa lạnh lùng, vừa đầy vẻ khinh miệt, như muốn nghiền nát từng chút giá trị của kẻ mà ả gọi là “nguồn gốc.” Trong ánh sáng lờ mờ của khu rừng, hình bóng của con hồ ly hiện lên như một thực thể dị dạng và đáng sợ.
***
Bán yêu, đúng như tên gọi của chúng, đó là những thực thể mang cả đặc điểm của con người lẫn yêu quái. Theo các nghiên cứu cho đến nay, có ba cách để dẫn đến sự ra đời của một bán yêu.
Đầu tiên là khi một đứa trẻ được sinh ra từ mối quan hệ giữa con người và yêu quái. Điều này có thể xảy ra khi người cha là con người và người mẹ là yêu quái, hoặc ngược lại, khi người cha là yêu quái và người mẹ là con người. Tuy nhiên, trường hợp phổ biến nhất là khi một người phụ nữ loài người bị yêu quái hiếp và sau đó mang thai.
Rõ ràng, những yêu quái là con cái khá hiếm gặp. Hơn nữa, thông thường thì các cá thể này sẽ có cái nhìn khinh miệt và coi thường loài người. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt như loài nhện yêu nữ (Jorogumo), hiếm có nữ yêu nào muốn quan hệ với đàn ông là loài người. Ngược lại, trường hợp con người muốn bắt giữ yêu quái và cố gắng cưỡng ép quan hệ với chúng cũng có thể xảy ra, nhưng với sức mạnh vượt trội của loài yêu quái, những trường hợp như vậy thường rất hiếm.
Nhìn từ góc độ khác, phụ nữ loài người dễ bị bắt giữ hơn, và đặc biệt là những người phụ nữ có linh lực, vì họ là nguồn năng lượng tuyệt vời giúp yêu quái tăng cường sức mạnh. Do đó, trường hợp này có tỷ lệ xảy ra cao hơn hơn.
...Tuy rằng, trong một số trường hợp cực kỳ hiếm hoi, vẫn sẽ có tồn tại các mối quan hệ hôn nhân giữa con người và yêu quái, nhưng số lượng trường hợp này quá ít để có thể coi là phổ biến mà chỉ được xem như những ngoại lệ đặc biệt.
Cách thứ hai để dẫn đến sự ra đời của bán yêu là khi bào thai được thụ thai từ con người nhưng trong tử cung, lại bị biến đổi thành bán yêu.
Điều này chủ yếu được coi là do ảnh hưởng của yêu khí. Ví dụ, việc cư trú trong khu vực có nồng độ yêu khí cao trong thời gian mang thai, hoặc bị thương trong một cuộc tấn công của yêu quái dẫn đến việc yêu khí xâm nhập vào cơ thể, hay nghiêm trọng hơn, là trường hợp phụ nữ mang thai bị yêu quái cưỡng bức và truyền yêu khí vào thai nhi, đều được ghi nhận là có khả năng tạo ra một đứa trẻ bán yêu.
Yêu khí là nguồn gốc sức mạnh của yêu quái. Khi yêu khí tác động lên thai nhi, nó sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến đứa trẻ trong bụng, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Ngoài ra, cơ thể người mẹ cũng phải chịu nhiều áp lực nặng nề khi bị yêu khí xâm nhập từ bên trong. Tệ nhất là đã có trường hợp khi thai nhi sẽ xé rách bụng mẹ ra để chào đời. Chính vì vậy, triều đình đã ra lệnh xử lý thai nhi là bán yêu như một đối tượng cần phá thai bắt buộc, đồng thời yêu cầu các thầy thuốc phải thực hiện việc này một cách miễn phí.
Trường hợp thứ ba có phần tương đồng với cách thứ hai, đó là trường hợp khi mà con người bị trở thành bán yêu sau khi chào đời.
Những trường hợp này cũng có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng phổ biến nhất là do ăn phải thịt hoặc máu của yêu quái, hay bị yêu khí xâm nhập vào cơ thể qua vết thương do yêu quái gây ra, hoặc cơ thể biến đổi do bị nguyền rủa và gây nên tình trạng tích lũy yêu lực trong một khoảng thời gian dài. Tuy nhiên, số người trở thành yêu quái thông qua cách này không thực sự nhiều.
Máu thịt của yêu quái không phải thứ dễ dàng có được, và ngay cả khi ăn một hoặc hai lần, cơ thể con người cũng không dễ dàng bị biến đổi thành yêu quái. Tương tự, nếu chỉ bị thương nhẹ thì hầu như không có khả năng cơ thể bị biến đổi còn nếu là vết thương nặng, hết mười người thì chín người sẽ chết vì mất máu trước khi bị biến thành yêu quái. Tất nhiên, từng có những yêu quái sở hữu năng lực đặc biệt có thể biến người thành yêu, bằng cách gây ra những vết thương vừa đủ sâu để nạn nhân không chết sau đó thả họ đi. Nhưng đây vẫn là những trường hợp rất hiếm.
Bất kể một bán yêu được sinh ra theo cách nào, thì triều đình cũng đều không hề công nhận sự tồn tại của họ, ngoại trừ một số ít trường hợp ngoại lệ.
Về cơ bản, ngay cả linh lực— một sức mạnh mà chỉ một số ít nhân loại sở hữu— cũng bị triều đình coi là mối đe dọa. Do đó, họ áp dụng nhiều chính sách để kiểm soát những người sở hữu sức mạnh này. Chẳng hạn như, các pháp sư và võ sĩ đều bị buộc phải ở tiền tuyến để đối đầu với những yêu quái tại các vùng địa phương xa xôi, đồng thời họ cũng phải chịu sự ràng buộc bởi các hệ thống như tham cần giao đại [note66675]. Hơn nữa, để đối phó với nguy cơ những người mang linh lực hoặc năng lực dị biệt phản loạn, triều đình đã lập ra các đội quân chuyên dùng hỏa dược, như các đơn vị pháo binh, cùng các nhóm sát thủ, trực thuộc sự quản lý của triều đình.
Huống hồ, yêu quái— và đặc biệt là bán yêu, những kẻ mang một phần sức mạnh của yêu— lại càng không thể được chấp nhận. Ngày nay, ký ức về những cuộc chiến lớn và hỗn loạn đã phai mờ, nên việc nhìn thấy một bán yêu có thể không dẫn đến việc họ bị giết ngay tại chỗ. Nhưng cách đây một hoặc hai trăm năm, việc săn lùng bán yêu được dân chúng chủ động tiến hành, thậm chí trong một số khu vực, hành quyết công khai bán yêu còn trở thành một thú vui mang tính giải trí.
Đối với gia đình có người thân là bán yêu, việc có một thành viên như vậy không chỉ là một nỗi ô nhục, mà nó còn có thể trở thành lý do khiến cả nhà bị kỳ thị. Nhiều bán yêu được cho là đã bị chính gia đình hoặc họ hàng của họ giết để tránh gây rắc rối. Hơn nữa, vì là một sự tồn tại dị thường, nên họ đã bị trở thành mục tiêu cho các trừ yêu sư mua lại. Và trong một số trường hợp, những bán yêu còn bị các gia tộc trừ yêu hàng đầu mua lại để làm vật thí nghiệm hay trở thành tay sai.
Vì vậy, việc một bán yêu có thể sống sót qua hơn 500 năm và thậm chí giữ được vị trí đứng đầu Ngự Linh Viện là một trường hợp ngoại lệ hiếm có.
Câu chuyện của cô bắt đầu từ khi cô chỉ là một cô bé— một người tị nạn đến từ một tiểu quốc bị yêu quái tiêu diệt trong thời kỳ Đại Loạn. Mất hết người thân và không nơi nương tựa, cô bị bắt cóc bởi những kẻ buôn người và sau đó bị bán lại cho triều đình. Tại đây, cô trở thành vật thí nghiệm cho các cấm thuật mà triều đình lúc bấy giờ đang nghiên cứu. Trong số những thí nghiệm đó, kế hoạch tạo ra các binh sĩ bán yêu bằng cách lợi dụng sự biến đổi do yêu khí gây ra thuộc vào loại "nhẹ nhàng" nhất.
Đa số các binh sĩ là bán yêu đã bị sử dụng đến kiệt quệ trong chiến tranh thời Đại Loạn. Những kẻ sống sót, nhưng bị biến đổi quá nặng và đánh mất lý trí con người, đều bị xử tử. Cô là một trong số ít những người giữ được lý trí, phần lớn sự may mắn ấy là đều nhờ vào tỷ lệ yêu hóa thấp và nguồn yêu khí được sử dụng trên cô— lấy mẫu từ một loài hóa hồ ly có bản năng chiến đấu thấp nhưng trí tuệ lại cực kỳ cao.
Do đó, ngay cả sau khi Đại Loạn kết thúc, cô vẫn giữ được trí tuệ và lý trí của mình. Điều này cho phép cô có thể tiếp tục được ở lại làm việc với tư cách là một con cờ phục vụ triều đình.
Và thời gian cứ thế trôi qua... Dẫu rằng các Trừ Yêu Sư có tuổi thọ dài hơn so với người phàm, họ vẫn chỉ là con người. Đến một lúc nào đó, cô nhận ra mình đã trở thành người lớn tuổi nhất trong Ngự Linh Viện, không chỉ sở hữu kiến thức sâu rộng mà còn được tôn kính như một nhân chứng sống của thời Đại Loạn. Trong nội bộ Viện, vị thế của cô cũng không thể nói là thấp được.
Tất nhiên, việc bổ nhiệm một bán yêu làm người đừng đầu Ngự Linh Viện vốn dĩ là điều không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, khoảng một trăm năm trước, dưới triều đại của Ngọc Lâu Đế, chính Hoàng đế đã đích thân chỉ định cô. Một mệnh lệnh trực tiếp đến từ Ngọc Lâu Đế là một điều mà không ai có thể phản đối.
Ngọc Lâu Đế nổi tiếng là một minh quân trong lịch sử, người đã xiết chặt kỷ cương của triều đình, thi hành nhiều biện pháp cải cách đất nước như giảm thuế, đồng thời tuyển chọn nhân tài dựa trên năng lực. Sự bổ nhiệm trực tiếp từ Ngài không chỉ khẳng định tài năng và kinh nghiệm của cô, mà nó còn là minh chứng cho việc cô xứng đáng đứng ở đỉnh cao của Ngự Linh Viện. Việc từ chối ân sủng này là điều không thể.
Mặc dù ban đầu có vài lời dị nghị, nhưng cuối cùng, nhờ sự tiến cử của Hoàng đế, cô đã đảm nhận vị trí Viện trưởng của Ngự Linh Viện trong hơn 80 năm. Tuy có vài chuyện xảy ra trong thời gian đó, nhưng toàn bộ khoảng thời gian mà cô giữ chức Viện trưởng có thể xem là một thời kỳ yên bình. Điều này không chỉ nhờ vào năng lực của bản thân cô, mà còn vì xã hội thời ấy không có những vấn đề đủ lớn để dẫn đến các cuộc hỗn loạn.
Ngoài ra, việc cô là nữ giới cũng gần như không phải là một vấn đề quá lớn. Trong các gia tộc trừ yêu, việc dòng máu càng thuần khiết thì linh lực càng mạnh mẽ đã trở thành điều hiển nhiên. Vì thế, linh lực và dị năng luôn được ưu tiên hơn giới tính, và việc phụ nữ đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng trong lịch sử Ngự Linh Viện là điều không hề hiếm.
...Trong bối cảnh đó, cô đánh mất vị trí Viện trưởng Ngự Linh Viện ngay sau khi Hoàng đế Dương Nhương băng hà và Hoàng đế Thanh Lệ, khi ấy còn quá trẻ, đã lên ngôi. Nguyên nhân khởi nguồn từ việc Đàn Chính Đài, cơ quan chịu trách nhiệm giám sát nội bộ triều đình, phát hiện ra rằng các học sĩ của Lý Cứu Viện – một cơ quan trực thuộc Ngự Linh Viện – đã bí mật nghiên cứu và thực nghiệm các cấm thuật.
Kẻ chủ mưu là Đạo Nghiệm Ông, Viện trưởng Lý Cứu Viện kiêm chức Thái Cung Trợ của Ngự Linh Viện – người nắm giữ vị trí quyền lực thứ hai trong Viện. Đạo Nghiệm Ông, tên thật là Matsushige Doken, đương kim gia chủ đời thứ 28 của gia tộc Matsushige, cùng với hơn mười Trừ Yêu Sư đã tham gia vào các nghiên cứu cấm thuật, sau đó thì bỏ trốn ngay khi bị phát giác vụ việc. Sau vụ việc này, không tránh khỏi được những nghiên cứu kia được xem như là trách nhiệm của cô, người giữ vai trò cấp trên của họ. Cô không bị bỏ tù, phần vì những cống hiến trong quá khứ, phần vì sự khoan hồng dành cho một người đã phục vụ triều đình trong suốt nhiều năm dài.
Tuy nhiên, sự khoan hồng ấy cũng không đủ để bảo vệ cô khỏi các thế lực khác. Từ các quý tộc vốn luôn xem thường bán yêu, đến những cấp dưới đã âm ỉ bất mãn vì không thể lên thay do sự trường thọ của cô, hay các vị đại thần bị kẹt giữa quyền uy và sự ảnh hưởng của cô mà không thể trực tiếp xử lý, tất cả đều tìm thấy lý do để loại bỏ cô. Cuối cùng, dưới danh nghĩa "ân xá" nhân dịp tân hoàng lên ngôi, triều đình đã đưa ra phán quyết: tước bỏ mọi chức vụ và tước vị, trục xuất khỏi nội đô, đồng thời đặt cô dưới sự giám sát định kỳ. Đây là kết quả của một thỏa hiệp nhằm tránh gây thêm rắc rối chính trị.
Dù mất đi vị thế tại triều đình, cô không hề trốn tránh nhằm chứng minh sự trong sạch của mình. Thay vào đó, cô định cư tại một góc của khu phố mới – dễ dàng để triều đình theo dõi. Cô cũng đã cải tạo một ngôi nhà bị bỏ hoang để trở thành nơi ở mới của mình. Và ở đó, cô sống cùng với vài đứa trẻ bán yêu – những người từng bị giam giữ trong địa lao của Lý Cứu Viện, nơi chúng từng là những vật thí nghiệm cho các nghiên cứu cấm thuật.
Và như thế… cuộc đời của Azuma Hibari tiếp tục cho đến ngày hôm nay: làm viện trưởng một cô nhi viện và giáo viên tại một trường học nhỏ.
***
“Xem nào, các con. Ta đã cắt dưa hấu rồi đấy, mau rửa tay sạch sẽ nào.” Hibari nói, khi cô vừa cắt những lát dưa hấu đã được làm mát bằng nước giếng trong chiếc bình đặt sẵn. Hướng về những đứa trẻ đang vui đùa đuổi bắt nhau trên sân nhỏ trước nhà.
“Vâng ạ!”
Tiếng trả lời giòn giã vang lên, lộ rõ sự háo hức và niềm vui trong từng giọng nói. Lúc này đã là khoảng giờ Thân, tức là đầu giờ chiều – thời điểm mà những cái bụng của mấy cô cậu tiểu quỷ đang nô đùa trước sân bắt đầu cảm thấy đói.
Dẫu Tân Thành [note66674] , nơi họ sinh sống, được xây dựng chủ yếu bằng các kiến trúc gỗ và hoàn toàn vắng bóng những “rừng bê tông” thường thấy ở các khu đô thị khác, có cái nóng của mùa hè vẫn không hề giảm bớt. Vì đã chạy nhảy suốt cả buổi sáng, nên những đứa trẻ đã ướt đẫm mồ hôi đều cảm thấy vô cùng khát nước. Và ngay lúc này đây, khi chúng nhìn thấy những lát dưa hấu tươi mát trên đĩa, không đứa nào có thể kìm nén được sự phấn khích của mình.
Những quả dưa hấu này nhỏ, nhiều nước nhưng ít ngọt, còn là loại chất lượng thấp được bán với giá chỉ bằng một nửa so với dưa hấu thường. Tuy nhiên, đối với dân thường, đó vẫn là một món ăn xa xỉ. Bọn trẻ, mắt sáng rực lên, tranh nhau mỗi đứa lấy một miếng, rồi hớn hở cắn từng miếng lớn. Những giọt nước mát lành từ dưa hấu chảy xuống cằm, hòa lẫn với tiếng cười giòn tan, khiến khung cảnh sân nhà nhỏ trở nên rộn rã và tràn đầy sức sống.
“Này, các con phải nói “Itadakimasu” trước khi ăn chứ! Và nhớ nhổ hết hạt ra đấy, không được nuốt đâu!”
Azuma Hibari mỉm cười nhắc nhở bọn trẻ đang hăm hở cắn những miếng dưa hấu, nhưng ánh mắt cô chợt bắt gặp một bóng dáng nhỏ nhắn ở cách đó không xa. Đó là một cô bé với đôi tai cáo và cái đuôi mềm mại, đang ngập ngừng đứng nhìn những đứa trẻ khác vây quanh đĩa dưa.
“Shiro, sao thế? Con không ăn sao?” Hibari nhẹ nhàng hỏi, giọng nói của cô ấm áp như muốn xua tan đi mọi ngần ngại.
Cô bé được gọi là Shiro giật mình ngước lên. Ánh mắt cô bé chạm phải ánh mắt dịu dàng của Hibari, rồi lại cúi gằm mặt xuống, bối rối xoay người trong tư thế lúng túng, trước khi rụt rè cất lời:
“Ưm… tại… mọi người đang ăn hết nên con… ngại không muốn lấy…”
Hibari chỉ cần nhìn vào đôi mắt của cô bé và nghe những lời đó là hiểu ngay. Cô bé thực sự không dám giành phần, chỉ vì tính nhút nhát và quá mức dè dặt.
Shiro là một bán yêu mà Hibari đã nhặt được không lâu trước đây, khi cô bé đang trong tình trạng kiệt sức, thương tích đầy mình. Sau khi được cô chữa trị và chăm sóc, Hibari biết rằng cô bé này không còn chút ký ức nào về thân thế của mình, cũng chẳng có nơi nào để quay về. Vì vậy, Shiro trở thành thành viên mới của cô nhi viện.
Tuy nhiên, có lẽ vì mất ký ức, Shiro lúc nào cũng tỏ ra nhút nhát, rụt rè và gần như không bao giờ lên tiếng yêu cầu điều gì. Cô bé thường chỉ đứng nhìn, nhường nhịn người khác, không dám đòi hỏi phần mình, và luôn quan sát xung quanh như để chắc chắn rằng mình sẽ không gây ra phiền hà gì cho mọi người.
Với cách cư xử rụt rè và ngoan ngoãn, Shiro thực sự là một "đứa trẻ tốt" khiến người khác không phải bận lòng. Nhưng đồng thời, sự nhút nhát ấy cũng khiến lòng Hibari không khỏi đau xót. Từ những kinh nghiệm trong quá khứ, Hibari nhận ra rằng cô bé đang sợ bị đuổi ra khỏi cô nhi viện, nơi mà Shiro có lẽ xem như là hy vọng cuối cùng của mình.
“Con cũng đổ mồ hôi và mệt rồi, đúng không? Ăn một chút đi nào. Nếu cứ cố gắng quá, con sẽ ngã bệnh đấy.” Hibari nhẹ nhàng khuyên nhủ.
“Chị ơi, ăn cùng với tụi em nhé?”
Chưa kịp dứt câu, cô bé Akane— đứa trẻ nhỏ tuổi nhất trong cô nhi viện, luôn xem mình là “em gái” của mọi người— đã nhanh nhảu chạy đến. Tuy miệng cô bé lúc này đang dính đầy nước dưa hấu, nhưng đôi mắt thì vẫn long lanh sáng rực lên. Akane chìa cả hai tay, đưa một miếng dưa đến trước mặt Shiro, trên môi nở một nụ cười rạng rỡ.
“…Ừm, chị cũng sẽ ăn cùng.” Shiro thoáng sững lại, nhưng ngay lập tức, trên khuôn mặt của cô bé hiện lên một nụ cười dịu dàng. Cô nhận lấy miếng dưa hấu từ tay Akane, rồi nhẹ nhàng cắn một miếng. Sau đó, cô bé bắt đầu vừa ăn vừa trò chuyện vui vẻ với Akane và những đứa trẻ khác.
Hibari lặng lẽ quan sát cảnh tượng ấy, nở một nụ cười nhẹ, nhưng không giấu được nét trầm tư. Cô quay lại, ánh mắt hướng về phía khung cửa trượt shoji [note66673] là một loại cửa truyền thống của Nhật Bản, được tạo nên bằng cách sử dụng giấy Washi dán trên khung gỗ Kumiko với kỹ thuật đặc biệt. Công dụng chính của cửa trượt Shoji dùng để ngăn mưa gió, phân chia không gian sống và che chắn ánh sáng), dõi ra bên ngoài. Dáng vẻ an nhiên của cô lúc nãy dường như tan biến, thay vào đó là một vẻ mặt nặng trĩu những âu lo.
“...Có lẽ mình cần phải tăng cường kết giới thêm mới được.” Hibari thì thầm, như tự nói với chính mình, nét căng thẳng thoáng qua trong ánh mắt.
Hibari không ngừng suy nghĩ về chuyện mà cô đã nghe được gần đây. Một đoàn thương buôn trên đường đến kinh đô đã bị một nhóm yêu quái tấn công.
Đây quả thực là một sự kiện nghiêm trọng. Việc một đoàn thương buôn lớn bị yêu quái tập kích ở khu vực quanh kinh đô là chuyện hiếm có. Trong suốt thời gian làm chủ Ngự Linh Viện, Hibari chỉ nhớ có một, hoặc hai lần xảy ra tình huống tương tự.
“Nghe nói họ đã đánh đuổi được đám yêu quái mà hầu như không có thương vong... Nhưng chính điều đó lại làm cho người dân trở nên quá yên tâm, và chẳng còn lý do để đề phòng đến nó.” Hibari thầm lẩm bẩm, khuôn mặt trầm ngâm.
Việc đánh đuổi được yêu quái không đồng nghĩa với việc là vấn đề đã được giải quyết triệt để. Chắc chắn là đã có không ít yêu quái đã trốn thoát được. Dù vậy, người dân ở khu phố mới dường như đã quên mất nguy hiểm. Họ tin rằng mọi chuyện đã kết thúc, nên thái độ cảnh giác của họ cũng theo đó mà biến mất theo luôn. Những biện pháp tự vệ trước đó, như hạn chế ra ngoài, hay khóa cửa cẩn thận, hoặc mang theo bùa hộ mệnh, giờ đây dường như đã không còn được thực hiện.
Tình trạng mất tích thường xuyên xảy ra gần đây— mà Hibari tin rằng nạn nhân đã trở thành mồi cho yêu quái— cũng tạm thời chấm dứt. Những chuyện này đã càng làm cho mọi người càng trở nên chủ quan hơn. Thậm chí, lớp học tại trường mà cô đang dạy đã phải tạm nghỉ vì lý do an toàn, thì cũng vào ngày mai, theo lịch, trường sẽ mở cửa trở lại.
“Những lúc thế này lại càng không thể lơ là được...” Hibari thầm nghĩ. Cô hiểu rõ bản chất của yêu quái: xảo quyệt, tàn nhẫn, và luôn chờ đợi thời cơ thích hợp. Dù cô muốn dành thêm chút thời gian để ở cùng bọn trẻ, nhưng hoàn cảnh dường như không cho phép cô làm điều này.
“Ô-ka-san! Ăn dưa hấu với tụi con đi!”
Tiếng gọi trong trẻo của Akane làm Hibari giật mình quay lại. Cô bé nhỏ nhắn chạy đến, trên tay đang cầm miếng dưa hấu, đôi mắt sáng rực tràn đầy niềm vui. Hibari nhìn bọn trẻ, rồi mỉm cười, tạm gác lại những suy nghĩ u ám của mình.
“Ừ, mẹ sẽ ăn với các con.” nàng đáp, giọng điệu dịu dàng, rồi ngồi xuống bên đám trẻ, để cùng chia sẻ khoảnh khắc yên bình hiếm hoi này.
Một trong những đứa trẻ mà cô yêu thương như con ruột vừa cất tiếng, kéo Hibari về lại thực tại. Trước mặt cô là một cậu bé nhỏ nhắn, đôi mắt sáng ngời, giơ cao miếng dưa hấu với nụ cười ngây thơ.
“...À, đúng rồi. Nhìn ngon quá nhỉ? Mẹ sẽ ăn nhé.”
Nụ cười trong sáng của đứa trẻ khiến Hibari cảm thấy lòng mình dịu lại. Cô khẽ mỉm cười, nhận lấy miếng dưa hấu từ tay cậu bé. Một tiếng “rộp” nhẹ vang lên khi nàng cắn miếng đầu tiên. Vị ngọt thanh liền lan tỏa ra trong miệng cô, dòng nước mát lành cũng từ đó mà xoa dịu đi cổ họng đang khô khát của cô lúc này.
Hibari nở một nụ cười ấm áp với bọn trẻ, để chúng yên tâm. Nhưng ngay sau đó, cô liền lén liếc nhìn cô bé với đôi tai và chiếc đuôi hồ ly trắng đang đứng ở góc xa.
(Hồ ly... ư?)
Một bán yêu mang dòng máu hồ ly... Theo những gì Hibari nghe được, bọn yêu quái đã tấn công đoàn thương buôn cũng là những con hồ ly. Nếu kết nối các sự kiện lại, điều này khiến cô không khỏi không suy nghĩ, nhưng cô cũng nhận ra rằng nếu mình phán đoán như vậy, thì nó cũng quá vội vàng và thiếu cẩn trọng.
Hibari không thực sự nghĩ rằng cô bé này lại là một yêu quái tà ác. Vì nếu là yêu quái, cơ thể chúng sẽ toát ra yêu khí. Ngược lại, yêu quái không bao giờ sở hữu linh lực.
Như những bán yêu khác, cô bé hồ ly này vừa mang yêu khí vừa mang linh lực, cả hai hòa quyện ở mức cân bằng. Điều đó có nghĩa là cô bé không phải yêu quái.
Hibari hiểu rằng, đôi mắt của cô không dễ để bị đánh lừa. Nếu ai đó đang nói dối hay cố che giấu đi sức mạnh của bản thân, thì cô đều có thể nhận ra được dù sớm hay muộn. Và đối với cô bé bán yêu này, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cô cần phải cảnh giác. Những lời cô bé nói đều là sự thật, tính cách e dè của cô không phải là diễn, và sức mạnh của cô bé— dù tiềm năng có thể lớn— nhưng hiện tại gần như là không đáng kể. Là một bán yêu với tuổi đời đã vượt qua cả bốn con số, Hibari tự tin khẳng định điều này là đúng.
Nếu như vậy, thì cô chẳng có lý do gì để đuổi cô bé ra khỏi nơi này. Một khi bị đuổi ra ngoài, với dòng máu hồ ly của mình, cô bé sẽ trở thành con mồi đầu tiên của những yêu quái khác. Tệ hơn nữa, cô bé có thể bị bọn lưu manh trong thành phố bắt cóc, hoặc trở thành vật thí nghiệm cho các trừ yêu sư. Thậm chí, gần đây khi nhiều người dân đã trở thành nạn nhân của yêu quái, cô bé rất có thể sẽ trở thành mục tiêu trút giận của đám đông, bị đánh đập, hoặc thậm chí sát hại.
(Hơn nữa, mình còn phải lưu tâm tới kẻ đó nữa…)
Hibari nhớ lại cảnh tượng khi cô tìm thấy cô bé. Bên cạnh cô bé là một người mang theo trường thương, khoác trên mình một chiếc áo choàng có tác dụng che giấu linh lực. Ngay cả Hibari, với khả năng của mình, thì cô cũng không thể nhận ra được người đó ngay lập tức.
Chỉ riêng việc người này khoác cái áo choàng đó, ở một nơi như vậy vào thời điểm ấy thôi, cũng đã đủ chứng minh rằng hắn không phải là một người bình thường rồi. Hơn nữa, khi Hibari tỏa ra sát khí và chuẩn bị chiến đấu, kẻ đó liền lập tức rút lui. Điều này không giống như là hành động của một trừ yêu sư nghiệp dư. Ngược lại, người này dường như đã được trải qua quá trình huấn luyện bài bản, và cũng như là có một kinh nghiệm thực chiến nhất định.
(Shiro… Cô bé này đã bị thương rất nặng, nhưng…)
Hibari nhìn sang Shiro, lòng cô dâng lên cảm giác lo lắng xen lẫn tò mò. Tại sao cô bé này lại ở đó? Và người đi cùng cô bé là ai?
Dù cho bán yêu có sức sống dai dẳng đến đâu đi nữa, thì những vết thương đầy ngẫu nhiên trên cơ thể cô bé lại rất bất hợp lý nếu là do người kia gây ra. Với thực lực của kẻ đó, hành động tấn công theo kiểu bừa bãi như vậy thật là quá thiếu cẩn thận. Nếu mục đích của hắn là giết cô bé, thì hắn ta đã không chọn cách tấn công kiểu này rồi. Ngược lại, nếu ý định của hắn chỉ đơn giản là bắt giữ, thì cũng không có lý do gì để khiến cô bé phải chịu nhiều vết thương đến vậy.
"........."
Hibari không có ý nghi ngờ gì cô bé bất hạnh này cả. Tuy nhiên, việc có quá nhiều điểm bất thường là điều không thể phủ nhận. Chính vì vậy, trong lòng cô luôn dấy lên một cảm giác bất an mơ hồ. Dẫu có suy nghĩ bao lâu đi chăng nữa, với lượng thông tin ít ỏi hiện tại, cô cũng không thể tìm ra câu trả lời. Thêm vào đó, cô cũng không thể bỏ mặc công việc tại trường được.
"Có lẽ mình nên thiết lập một vài ngoại lệ cho kết giới…"
Vì đã bị trục xuất khỏi Ngự Linh Viện, nên Hibari rất khó có thể hợp pháp sở hữu những món pháp cụ quý giá và đắt tiền. Hơn nữa, cô cũng không có nguồn tài chính dư dả. Với những pháp cụ sẵn có, và khả năng dựng kết giới hoặc triệu hồi thức thần của cô— dù có là một bậc thầy— thì cô cũng bị giới hạn. Đặc biệt, với tư cách là một bán yêu, bản chất của cô vốn không thiên về chiến đấu trực diện. Trong hoàn cảnh đó, để tăng cường bảo vệ với nguồn tài nguyên hạn chế, việc thêm vào các ngoại lệ cho kết giới là lựa chọn đúng đắn. Nhờ thiết lập các ngoại lệ cụ thể, mà cô có thể tập trung linh lực để đối phó với những mục tiêu mà mình đề ra trong các trường hợp cần thiết.
"Vậy thì, ngoại lệ sẽ là... chỉ những người được bọn trẻ mời vào trong, được không nhỉ?"
Hibari đã dặn dò lũ trẻ không được đi theo người lạ, cũng như không để bất kỳ ai không quen biết vào nhà. Cô vẫn luôn suy nghĩ về các biện pháp để bảo vệ bọn trẻ trong lúc mình vắng nhà, đồng thời cô cũng nhấn mạnh với chúng phải luôn tuân thủ theo những lời căn dặn của mình.
Dĩ nhiên, nếu một con hồ ly thật sự mạnh thì nó có thể sử dụng thuật biến hình, và bản chất của yêu quái là loài dối trá. Nhưng Hibari đã lường trước được điều đó. Kết giới của cô nhi viện đã được thiết lập các thuật thức để phát hiện những lời nói dối và ngăn chặn các loại huyễn thuật. Nó không hề có kẽ hở nào.
Thực tế, những đứa trẻ bán yêu vốn bị xã hội kỳ thị, nhưng đồng thời chúng cũng là "món hàng" có giá trị. Không chỉ với những kẻ căm ghét yêu quái, mà cả với các băng nhóm xã hội đen buôn người, hay những trừ yêu sư xấu xa cũng muốn chiếm đoạt bọn trẻ. Chính Hibari và lũ trẻ đã từng hứng chịu những cuộc tấn công từ chúng vì lý do đó. Bọn trẻ đều ý thức rõ được mối nguy hiểm mà cả đám đều phải đối mặt, nên việc chúng mời một người lạ vào nhà mà không hề cân nhắc là điều khó có thể xảy ra. Vì vậy, cô đã thêm ngoại lệ này vào kết giới.
Hibari, thực sự, đã đối xử với bọn trẻ như những đứa con ruột của mình, cô nghiêm túc và tận tụy trong việc bảo vệ chúng.
Tuy nhiên… có lẽ cô đã trở nên quá lơ là vì đã sống trong những năm tháng yên bình quá lâu.
Yêu quái vốn là loài sinh vật hèn hạ, đê tiện và đầy thủ đoạn. Lẽ ra cô phải biết rõ điều này. Nếu không quên, chắc chắn cô đã không bao giờ để xảy ra sơ hở, hay để lộ bất kỳ con đường nào cho chúng lợi dụng.
… Và như thế, bằng một cách vô tình, "sân khấu" cho vở bi kịch và thảm kịch đã được chuẩn bị xong.