Chương 3: Tuần Trăng Mật Màu Ngà
Độ dài 11,061 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-01-25 19:30:14
Trans+Edit: Thepa
~~~~~~~~~~
1
Tôi từng kinh ngạc rằng người ta có thể dễ dàng làm quen với những trải nghiệm khủng khiếp như là một đêm trên núi; còn giờ, tôi có thể ở xuyên suốt đêm mà chẳng có chút nào là sợ hãi. Tôi không hề muốn bất chấp đi tiếp. Một giấc ngủ liều về đêm còn tốt hơn nhiều so với việc men theo đường đèo vào ban đêm.
Về phần cô ấy, Nito vẫn chưa quen được với điều này. Cô đã hoảng sợ trước cảnh tối tăm không một đèn đường và chỉ với ánh trăng mờ mịt của núi. Tôi tự hỏi cô sẽ làm vẻ mặt nào nếu hai người lại phải cắm trại trên núi vào đêm nay.
May thay, con đường đã bắt đầu dốc xuống: sau khoảng không gian thoáng đãng trên núi, nơi mà chúng tôi dựng trại, cảnh vật để lộ ra dải cao nguyên rộng lớn và sườn dốc thoai thoải, tôi có thể thấy rõ một con đường cắt xuyên qua khu vực ở phía dưới. Chúng tôi buộc phải trở lại mặt đất trước buổi tối.
Tôi ngồi vắt chéo chân trên tấm bạt và giương tấm bản đồ mà mình tìm được trong chiếc xe tải ra. Dẫu có những chỗ vòng vo, như điểm dừng tại nhà ga trên mặt nước và phân xưởng của Vandyke, chúng tôi cũng đã ít nhiều đi theo con đường được vẽ trên bản đồ. Điểm dừng cuối cùng trên bản đồ là cây cầu ở hướng ngược dòng sông với chúng tôi. Thế nhưng đó lại chẳng phải là điểm đích của hai người. Chúng tôi còn điều phải làm ở thị trấn đằng trước nó. Việc kiểm tra bản đồ làm tôi yên tâm; miễn sao để mắt đến điểm đích và luôn cập nhật khoảng cách còn lại, thì tôi sẽ không bị lạc. Xét về mặt tinh thần, chỉ điều đó thôi cũng là một sự khuây khỏa đáng quan trọng.
Khi tôi gấp lại tấm bản đồ và để nó sang bên, một cơn gió mạnh thổi qua lùm cây gần đó. Làn gió suýt cuốn theo tấm bản đồ và tôi hốt hoảng ghìm nó xuống bằng cốc cà phê.
Khoảng không gian rộng phẳng trên ngọn núi này chắc hẳn đã từng một thời là điểm dừng chân của bao người vượt núi, hoặc có lẽ đã từng là một nơi cắm trại. Những dấu hiệu ít ỏi của con người gìn giữ khoảng không gian còn đọng lại ở đây và đó: vết muội đen trên bếp lò được làm từ đá bởi ai đó, một bộ bàn ghế dài được kết thành từ các khúc gỗ, và những thứ khác tương tự. Không xa kia còn có một con suối, vậy nên chẳng phải lo chuyện nước. Môi trường này quả là một nơi lý tưởng dành cho việc cắm trại.
Tôi làm đầy bồn nước cùng với những thùng phuy trên giá nóc của Kettle, và pha thêm cà phê bằng Svea. Nito vẫn chưa quay trở lại ngay cả khi tôi uống xong ba cốc. Có lẽ cô ấy đã tìm ra một nơi để vẽ và quên đi thời gian như thường lệ. Thoạt đầu, tôi đã mất kiên nhẫn khi điều đó xảy ra và chỉ muốn lên đường đi tiếp thay vì ngồi không. Thế nhưng sau vài ngày, tôi đã làm quen được nó. Tôi nhận ra rằng không có lý do gì để mà vội vàng cả.
Tôi thấy mệt mỏi vì ngồi và tự để mình ngả ra sau. Vì tấm bạt mỏng nên tôi cảm nhận được rõ nền đất ở dưới cứng như thế nào. Ôi, thì ra tôi mong mỏi một chiếc giường êm ái đến dường ấy. Vào cái đêm chúng tôi ở cùng Vandyke, tôi còn chẳng thèm mượn một chiếc mà chỉ dựng lều trong phân trường để ngủ. Giờ đây tôi lại thấy hối hận vì đã do dự.
Mặt trời từ từ mọc lên, tắm khoảng không gian trong ánh sáng màu trắng. Có lẽ gần đến hè rồi. Tôi có cảm giác rằng cảnh vật đang dần trở nên sặc sỡ theo từng ngày. Duỗi người ở nơi mình nằm, cảm thấy được cái se lạnh của làn gió trên da, nghe được tiếng lá xào xạc, tôi nhìn chằm chằm vào những hoa văn màu lá được hình thành từ bóng râm đu đưa dưới cây. Mắt tôi tự nhiên nặng trĩu hơn. Trong trạng thái nửa mơ nửa màng giữa ban ngày, phải mất một lúc để tôi nhận ra âm thanh mà mình đang nghe thấy là thật. Xa tít đằng kia, tôi có thể nghe thấy một tiếng còi. Nó bị bóp méo bởi độ vang của mình, song tôi vẫn nghe được năm hồi ngắn, tiếp đến là một hồi dài.
Cơn buồn ngủ tan biến trong tích tắc và tôi vực người dậy. Tôi căng hai tai. Sự im lặng bao trùm trong một lúc lâu. Sau đó tiếng còi lại—năm hồi ngắn, một hồi dài.
Tôi chẳng biết nó có ý gì, nhưng mà ai đó đang thổi còi. Hiện giờ không phải lúc để ngồi chơi. Tôi đổ đi chỗ cà phê còn sót lại và nhét hết hành lý ở ngoài vào trong hộp trước khi cuộn lại tấm bạt. Khi tôi chất xong mọi thứ vào trong Kettle, Nito đã trở lại từ con đường dẫn xuống sông, ẵm theo giá vẽ của mình.
“Cô có nghe thấy nó không?” Tôi hỏi.
“Có.” Cô gật đầu. “Tôi nghĩ nó là tiếng còi lâm nguy.”
“Tiếng còi lâm nguy ư?”
Đấy là một cụm từ đáng quan ngại. Nito đặt giá vẽ lên trên giá hành lý của xe ba bánh cũng như trả lời tôi.
“Nó là còi báo hiệu mà xe lửa và thuyền từng dùng trước đây. Năm hồi ngắn rồi tiếp đến một hồi dài tức là họ đang trong tình trạng khẩn cấp và cần sự trợ giúp.”
“Chi tiết ấn tượng đấy. Cô là ai, thủy thủ hả?”
Tôi thực sự ấn tượng khi nói vậy, nhưng vì lý do nào đó mà má cô ửng đỏ và cô nhìn ra chỗ khác.
Cuối cùng, cô cũng trả lời, “Khi còn nhỏ, từng có một thời mà tôi bị cuốn hút vào trong mấy cuốn tiểu thuyết thuyền buồm.”
(Cô còn có thể sử dụng cụm từ đấy ở độ tuổi của mình ư?)
“Dù sao chăng nữa,” Tôi nói vậy thay vì nói lên câu hỏi ấy, “ai đó đang tìm sự trợ giúp à?”
“Đúng vậy,” cô đáp, chống cằm vào tay và suy nghĩ. “Tuy nhiên, tôi lại không hoàn toàn thấy vui khi đi kiểm tra nó. Tôi đọc được rằng những người kích hoạt tín hiệu ấy sẽ tấn công những người đến giúp. Anh không thể chỉ ra họ có phải là người tốt hay không khi dựa vào tiếng còi.”
“Hiểu rồi. Lừa đảo nhỉ?”
Dường như hết thảy đều rất có thể xảy ra, khiến tôi lo lắng.
“Được. Hãy lên xe và đến xem gần hơn trước đã,” tôi quyết định.
“Anh chắc chứ?” Nito hỏi sau một hồi.
“Tôi chẳng muốn phớt lờ người ta nếu họ thực sự gặp rắc rối. Suy cho cùng, Vandyke cũng đã giúp chúng ta.”
Cụm từ “đáp đền tiếp nối” thấy hơi quá quắt ở đây, song bất luận ra sao thì tôi chắc chắn nó sẽ quấy rầy tôi cả tuần nếu cả hai cứ đi tiếp và phớt lờ tín hiệu. Tôi rốt cuộc cũng sẽ nghĩ rằng, “Có lẽ họ thực sự đang gặp rắc rối,” hay “Mình tự hỏi chuyện gì đã xảy đến họ,” hay cả “Lẽ nào có ai khác ngoài hai người đã có thể được cứu?” Tôi sẽ mất ngủ rất nhiều nếu những mối lo ngại ấy cứ xuất hiện trong đầu vào mỗi đêm.
Tôi luôn để nóng lò hơi của Kettle cho tới khi cả hai quyết định được nơi cắm trại vào ban đêm, nên giờ đây chúng tôi có thể khởi hành ngay khi lên xe. Lúc hai người chạy xuống con đèo uốn lượn, tôi để ý Nito đang nhìn mình qua khóe mắt.
“Sao thế?”
“Chỉ là… Chúng ta có nên dự phòng súng không?”
“Để tự vệ à?”
“Ừ.”
“Chúng ta không cần nó đâu. Có lẽ thế. Hơn nữa, nếu cả hai xuất hiện mà cầm một khẩu súng, dẫu cho có đề nghị giúp đỡ, thì nó sẽ trông như chúng ta định tấn công họ vậy.”
Nito gật đầu với một cái “Hiểu rồi” trước khi hướng mắt nhìn ra trước.
Tiếng còi phát thêm vài lần khi chúng tôi chạy xuống ngọn núi. Dường như nó càng to hơn mỗi khi cả hai nghe thấy. (Họ hẳn ở đâu đó trên đường.) Trong trường hợp ấy, chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc sẽ bắt gặp họ dọc đường cho dù cả hai có thích hay không. Cây cối thưa dần khi chúng tôi đi. Chúng tôi sắp sửa ra khỏi ngọn núi, và khi thấy nó ở đằng trước, ánh mặt trời bắt đầu bao phủ cảnh vật xung quanh hai người một màu đỏ rực.
“Là một con voi,” tôi lên tiếng.
“Con voi?”
“Hửm, bọn cô không có chúng à? Chúng là loài động vật với đôi tai to và một cái mũi dài thòng.”
“Tôi chưa từng nghe về chúng. Một loài vật trông như thứ đó tồn tại ở thế giới của anh sao?”
“Chà, tai và mũi thì giống nhau, nhưng tôi nghĩ kích cỡ thì…”
Nó là một phương tiện hơi nước lớn, hình hộp. Tôi chẳng biết nên định hình nó là một chiếc SUV hay Minivan, nhưng mà nó nằm trong phạm vi ấy. Thay vì kính chiếu hậu đơn giản, nó có hai chiếc lớn tựa tai voi nhô ra, còn “mũi” thì vênh ra bên ngoài và kéo dài từ dưới kính chắn gió. Chúng là hai món đồ trang trí duy nhất mà nó có.
Một người đàn ông cao gầy đứng kế bên nó vẫy một chiếc mũ đi săn về phía chúng tôi. Một người phụ nữ mang một chiếc váy màu hồng nhạt bước ra khỏi bóng râm của xe và bắt chước ông ta, thẹn thùng vẫy tay. Tôi liếc sang ghế phụ và Nito gật đầu. Chắc hẳn cô ấy cho là việc dừng lại sẽ không thành vấn đề gì, và tôi cũng đồng tình. Cả người đàn ông lẫn phụ nữ đều có nguyên đầu tóc bạc và mọi mặt đều trông như một cặp đôi già.
Tôi dừng bên chiếc xe con voi và hạ cửa sổ xuống. Người đàn ông cao tuổi trông mảnh khảnh tiếp cận với một nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt.
“Ôi, không thể tin là chúng ta tìm được các nhà lữ hành khác ở một nơi như thế này!” Ông thốt. “Đây hẳn là sự dẫn dắt của Crimson Saint. Nếu cháu có thể dung thứ nó, thì bọn ta sẽ rất đánh giá cao sự cứu giúp của cháu.”
“Sao cơ ạ?” Tôi hỏi, không dời tay khỏi cần số.
Tôi sẵn sàng phóng đi trong tức khắc. Người đàn ông khom người về phía tôi và để ý Nito trong ghế phụ. Mắt ông căng tròn và ông cẩn trọng gật đầu.
“Ta sẽ không trách cứ cháu nếu cháu đi ngang qua bọn ta ở trong cái thế giới như này. Ta lại còn phải cảm ơn cháu vì đã dừng lại. Cháu thấy đấy, bọn ta già yếu và không có đủ sức để làm hại bọn cháu, nên yên tâm đi.”
Ông ta hẳn đã ngửi thấy sự cảnh giác của bọn tôi. Giọng điệu của ông ấy hòa nhã và tôi cảm thấy có phần tội lỗi vì đã nghi ngờ ông. Ngay cả vậy, tôi vẫn do dự dời tay khỏi cần số. Nếu ở một mình thì tôi có lẽ sẽ chẳng bận tâm, nhưng Nito hiện đang ở cùng tôi. Tôi muốn ưu tiên sự an toàn hơn là phép lịch sự.
Tôi âm thầm mời ông nói tiếp, và người đàn ông mỉm cười. Một sự thấu hiểu lạ thường lướt qua giữa hai người; tôi cả quyết là ông ta hiểu thấu đáo được luồng suy nghĩ của mình và đồng tình như một lẽ dĩ nhiên.
“Có vẻ bọn ta đã đánh mất hộp đá mana trong suốt chuyến hành trình của mình. Vào lúc mà hai người để ý đến thì đã hết nhiên liệu mất rồi, và giờ vợ ta và ta bị kẹt tại đây.”
“Đó chắc hẳn là một thảm họa,” tôi tán đồng.
“Ta cho là bọn ta đã cất nhiên liệu ở trong xe. Thật không tốt khi lơ lơ là là nó,” ông trầm ngâm, rồi nói tiếp, “Nếu cháu có đủ nguồn cung, thì nó sẽ vô cùng giúp ích nếu như mà cháu sẵn sàng đổi chác chút nhiên liệu của mình thay cho đồ của bọn ta.”
Người đàn ông cúi mình thật sâu, hầu như tự gấp mình thành đôi. Người phụ nữ đằng sau cũng làm theo ông ta. Với việc cả hai người họ đi xa đến vậy, tôi cảm thấy hơi bị áp bách. Sau đó, một thứ gì đó khều cổ tay áo của tôi để dời tay tôi ra khỏi cần số. Tôi quay sang Nito và cô lia lịa gật đầu vài lần.
“Được thôi ạ. Bọn cháu còn thừa một chút,” tôi trả lời, buông tay khỏi cần số.
2
Tôi lôi một thùng gỗ đựng đá mana ra khỏi Kettle và chuyển nó sang chiếc xe con voi. Cặp đôi già xưng là Ned và Julie. Chúng tôi cũng đã giới thiệu bản thân mình, và trong khi họ từ tốn cảm ơn bọn tôi thì mặt trời đã lặn hẳn ra sau đường chân trời. Lúc chúng tôi lo lắng có nên lên đường trước khi màn đêm buông xuống hay không, Julie đưa ra một lời đề xuất tử tế.
“Nếu bọn cháu không vội, thì có muốn ăn tối cùng bọn này không?”
Lẫn Nito với tôi đều không thể từ chối lời mời của bà hay nụ cười đi song nó. Suy cho cùng, bọn tôi cũng chẳng có gì ngoài thời gian.
Do bởi sẽ không có xe cộ nào qua lại, chúng tôi giăng tấm bạt ngay giữa con đường, sau đó nhanh chóng đi lượm củi trước khi ánh mặt trời tan biến hẳn. Ned có một khung lửa kèm chân và ông nhóm lửa trong nó với các cử động thuần thục. Khi chạng vạng buông xuống, hết thảy chúng tôi ngồi ăn quanh lửa trại.
“Không thể tin là ngày mà chúng ta được ăn thịt không đóng hộp cũng đến! Xin lỗi vì sự thô lỗ của ta nhé, nhưng chỉ là ta chẳng thể nhịn được!”
“Ned!” Julie rầy.
Tôi lắc đầu cười ngạo.
“Thực ra thì bọn cháu cảm kích lắm. Cháu không chắc bọn cháu có thể ăn hết chỗ này chỉ với hai người.”
Tôi đã vui mừng khôn xiết vào lúc Vandyke tặng chúng tôi khối thịt—cho tới khi tôi nhận ra một sự thật trớ trêu rằng cả hai không có tủ lạnh. Nito lẫn tôi đều sở hữu một sức ăn vừa phải, vậy nên thịt sẽ bị thối rữa trước khi cả hai có thể ăn hết được nó. Chia sẻ nó với mọi người như thế này tốt hơn nhiều. Bên cạnh đó, hai người ấy đã gánh khoảng dụng cụ bếp núc và gia vị, và thậm chí còn tự tay nấu nướng. Chúng tôi chỉ ngồi trên chiếc ghế gấp được họ chuẩn bị, cứ như họ đang lo liệu tất tần tật vậy.
Họ đặt vỉ nướng lên trên lửa và xiên chút thịt trước khi bày nó ra vỉ để nướng. Sau đó, họ bỏ chỗ thịt ấy và chút rau vào trong một cái nồi cồng kềnh, rồi đun chúng để làm súp. Nấu nướng bằng lửa lộ thiên đòi hỏi tay nghề khác so với nấu nướng trong bếp, song Julie lại phô diễn với không một sự chần chừ.
“Trông bà thoải thoải mái với việc này nhỉ,” tôi nhận xét.
“Bà từng nấu bằng lò đốt củi, thành ra bà đã quen được việc đối phó với chút bất tiện.”
“Mỗi bữa ăn hồi đó có tốn nhiều công sức không vậy?” Ned hỏi.
Phản ứng ấy dường như bất ổn khi xét về mối quan hệ của họ, và nguyên cả phút chốc cứ như có một cảm giác kỳ quặc. Julie rót súp vào trong bát gỗ rồi đưa cho Nito và tôi. Mùi hương thu hút sự chú ý của tôi, và cảm giác kỳ quặc ấy cũng tan biến trước khi tôi có thể bưng hẳn nó. Cái bát chứa những miếng thịt và lá băm tựa rau chân vịt trôi nổi ở trong. Tôi làm một ngụm đầy mồm và rồi bất giác ngạc nhiên.
“Bà hy vọng khẩu vị hợp với lứa trẻ như cháu,” bà nói. “Nó có loãng quá không?”
“Không hề. Nó tuyệt ạ,” tôi trả lời, và Nito kế bên tôi gật đầu theo.
Thịt không phải là hương vị duy nhất trong món ăn. Nó hơi ngọt lịm mặc dù chính bản thân món súp hầu như trong suốt. Như thể súp nước cốt trong, nó còn có một dư vị dễ chịu. Tôi rất có thể sẽ hớp nó mãi mãi.
“Đây là hương vị gì đây ạ?”
“Nó được làm từ một loài cây dại tên cresso. Lá tốt như là thành phần rắn, trong khi rễ làm ra nước xuýt súp ngon tuyệt nếu cháu đun nó.”
Trong khi chúng tôi ngấu nghiến món súp, Ned bắt đầu nướng thêm các khối thịt. Ông lôi một quả khô màu đỏ từ thùng đựng đồ hộp của mình và đặt nó lên thớt. Sau đó ông lấy con dao được mắc bên hông và dùng đuôi cán để nghiền nó. Ông nắm bột quả và chà nó vào thịt. Rồi Julie thay phiên, cầm lấy thịt và quấn nó trong một miếng bọc mỏng tựa da trước khi bỏ vào lửa.
“Có chắc là nó sẽ ổn khi trực tiếp ở trong lửa không ạ?” Tôi hỏi.
Tôi chẳng thể bơ chuyện thịt bị cháy sém. Ngay cả Nito còn ngả người về trước và bất an nhìn nó. Ned vừa cười vừa cầm que thổi lửa được đặt lệch sang một bên lên. Nó là một thanh kim loại gầy với một chiếc cán màu ngà, và hẳn là một vật đáng tự hào của ông ta. Một cái càng uốn lên từ mút của nó, thành thử nó cũng hoạt động được như một que cời đơn thuần.
“Có một loài hươu sống trên miệng núi lửa tên là Deadera,” ông bảo chúng tôi. “Miếng da này là một trong số chúng. Nó chịu được lửa và nhiệt tốt, nên cái bếp lửa nhỏ bé này chẳng xi nhê gì cả. Quay thịt bên trong da Deadera là một phương pháp nấu nướng tuyệt vời đấy.”
Ông chĩa que thổi lửa vào trong khung lửa và dùng càng để đội củi với thịt. Sau đó ông đưa môi mình vào chiếc cán màu ngà và phồng hai má. Ngay lập tức, ngọn lửa bừng sáng, ánh lửa bập bềnh. Ông dời miệng và hổn hển thở vài lần trước khi làm chủ được bản thân mình. Julie vươn tay và vỗ nhẹ vào lưng ông.
“Anh ổn chứ? Anh luôn gắng sức quá đấy.”
“Anh muốn nói rằng mình vẫn còn có thể bắt kịp giới trẻ, nhưng mà điều đó sẽ không xảy ra đâu” ông nói, với một nụ cười phiền muộn trên khuôn mặt khi ông ấn tay vào lòng ngực.
“Ông có muốn đổi không ạ?” Tôi hỏi ông.
“Nếu như cháu không phiền,” ông nói, sau đó cẩn thận lau phần miệng bằng khăn. “Nhiệt độ rất quan trọng đối với món này, nên lửa cần phải mạnh hơn nữa.”
Tôi cầm lấy thanh que khi ông giơ ra cho tôi, và thấy kinh ngạc bởi độ nhẵn của cán. Nó vừa vặn trong tay tôi, gần như thể nó được làm chỉ để phù hợp với bàn tay của tôi.
“Tuyệt lắm, phải không?” Ned nhe răng hỏi.
“Vâng ạ,” tôi trả lời, nhe lại.
“Nó được làm từ chiếc ngà sữa của một loài động vật ăn cỏ khổng lồ tên là Fout. Được đồn đại rằng nếu chăm chút nó để làm gia tăng độ nhẵn, thì nó sẽ mịn gần bằng cái mà phụ nữ—”
“Ned à! Anh đang đứng trước một quý cô đấy,” Julie rầy ông.
Ned cường điệu tằng hắng trước khi nói, “Thứ lỗi cho tôi.”
Tôi liếc sang Nito và thấy cô đang ngơ ngác nhìn mình. Tôi ý thức được rằng cả hai tốt hơn hết nên cẩn thận lời ăn tiếng nói trước một cô gái trong sáng và ngây thơ như vậy.
Theo sau ví dụ của Ned, tôi chuẩn bị que thổi và đưa môi vào miệng que. Cho dù vật liệu cứng cáp đến dường nào, nó vẫn cảm thấy mềm mại trên môi tôi, có lẽ là do nhiệt từ lửa. Nó lại còn cảm thấy hơi ấm áp nữa chứ. (Cái mà phụ nữ… Phải rồi…)
Cẩn thận ẩn đi để Julie không thể nhìn thấy, Ned giơ ngón cái lên trước tôi. Mắt ông lấp lánh với tràn cười và dường như đang hỏi, “Tuyệt mà, phải không?” Tôi nhịn tràn cười của riêng mình và thổi xuống thanh que.
Toàn bộ không khí bị nén bên trong nó trước khi phụt ra khỏi đuôi. Lửa bừng lên, ánh đỏ và vàng giữa những chồng gỗ cháy mạnh hơn trong bóng tối của màn đêm. Khi tôi ngừng thổi, ngọn lửa suýt soát giành lại được sức mạnh tối đa. Nito bên cạnh tôi bật ra một tiếng thì thầm ngạc nhiên.
“Thật tốt khi là thanh niên.” Ned nói với vẻ nuối tiếc.
“Tất nhiên rồi,” Julie đồng tình.
Tôi thấy hơi xấu hổ trước lời khen ngợi của họ; suy cho cùng, tất cả những gì tôi làm chỉ là thổi xuống thanh que. Thoáng nhìn sang một bên, tôi thấy Nito đang nhìn chằm chằm vào que thổi lửa.
“Muốn thử chứ?” Tôi hỏi cô.
Cô bối rối được một lúc, và ngay đúng lúc tôi nghĩ rằng cô định gật đầu, thì cô vội vã lắc đầu. (Cô hãy quyết định lại đi mà.)
“Trời ạ! Chà, cháu là con gái,” Julie nói, nhã nhặn cười khúc khích.
Nó có ý gì vậy ạ? Có lẽ bà ấy chỉ không muốn tôi thấy cô ấy với cả hai má phồng lên.
“Quên nó đi, Keisuke à,” Ned bảo tôi. “Con tim phụ nữ là sắt rèn: dù cánh mày râu có cố đến đâu đi chăng nữa, thì vẫn sẽ chẳng bao giờ thấu rõ được nó. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là dành lời ca ngợi trước nhan sắc của họ.”
Ông ném thêm một khúc gỗ vào lửa cũng như kết thúc bài học cuộc sống của mình và trở lại với bài học thổi lửa.
“Rồi, rồi,” ông hướng dẫn tôi. “Mắc củi bằng đuôi. Thế đấy, gom nó lên trên miếng thịt… Cháu đang làm tốt lắm. Cháu có tài nấu ăn ấy.”
“Ông có tài nấu ăn không ạ?”
“Tất nhiên rồi, và của cháu cũng quả thực là thiệt.”
“Ông làm cháu ngượng đấy.”
(Hử, vậy đó là cách nó hoạt động sâo? Thế thì mình sẽ gắng hết sức,) vừa nghĩ tôi vừa trút nhiều lực vào việc thổi hơn.
“Nghe từ ‘khiêm nhường’ bao giờ chưa?” Nito chen vào từ ngoài cuộc.
“Nó chỉ là sự thật. Rành rành là tôi có tài.”
“Ông ta chỉ đang tỏ ra lịch sự.”
“Cô chỉ đang không hiểu thôi. Nhìn, nhìn vào ngọn lửa đi. Chẳng phải chúng đang cháy rất đẹp hay sao? Đó là tài năng của tôi.”
“Ngọn lửa vẫn sẽ đẹp ngay cả khi vắng anh.”
“Cô không nghĩ nó hiện đang láng hơn sao?”
“Láng gì cơ?”
“Đây. Đây nè, chỗ này.”
“Tôi chẳng biết anh đang nói về gì cả.”
Tràn cười đến từ đối diện chúng tôi. Cả hai cùng quay sang hướng của nó và thấy Ned lẫn Julie đang vui vẻ cười. Nó là một âm thanh hớn hở. Tôi nhìn sang lại Nito và cô xấu hổ quay mặt đi. Màu sắc đỏ đỏ trên hai má tái nhợt của cô không chỉ là ánh phản chiếu từ lửa.
“Trông hai cháu thân thiết nhề,” Julie nói.
“Quả thực là vậy. Thực tế là bạn thân cơ,” tôi nói, gật đầu, cùng chính lúc Nito trả lời bằng một cái vẫy tay: “Không cho lắm. Cả hai vừa mới gặp mặt thôi.”
Đương nhiên điều cô ấy nói hoàn toàn đúng.
“Ái chà, chỉ mới gặp mà cả hai cháu đã đi cùng nhau rồi á?” Ned hỏi, để rồi nhận một cú tát đầu gối từ Julie.
“Đừng thô lỗ. Ai cũng có lý do riêng mà.”
Tôi đã nói về hoàn cảnh của mình, và những gì đã xảy ra kể từ khi cả hai gặp mặt. Hai người bọn họ điềm tĩnh phản ứng lại, gật gù và thốt lên những lời thì thầm đầy ấn tượng. Tôi cảm thấy gần như thể một chuyên gia kể chuyện. Bởi những người chăm chú lắng nghe ít hơn những người chăm chú nói chuyện, nên nó là một trải nghiệm hiếm có đối với tôi.
“Chà, chẳng phải đó là do sự lạ kỳ của định mệnh hay sao,” Ned tự hỏi. “Và sự lạ kỳ cỏn con ấy cũng đã cứu bọn ta.”
“Từ thế giới khác đến đây hẳn khá khó khăn. Các quốc gia chẳng còn nữa cơ mà,” Julie nghiêm mặt cảm thông, và tôi thực sự cảm kích nó.
“Bà ước bọn này có thể cho cháu xem những điểm tham quan tốt hơn,” bà nuối tiếc nói tiếp. “Nếu Coven vẫn còn ở đây, họ có lẽ sẽ giúp ích cho cháu.”
“Coven?” Tôi hỏi bà.
“Nó là một viên nghiên cứu được thành lập vào lúc quốc gia vẫn còn vài đại mê cung. Bà nghe rằng họ từng đề nghị bảo trợ cho những người dị giới bị lạc tại nơi này.”
“Chà, cháu rất muốn chấp nhận lời đề nghị của họ. Thế nhưng giờ chẳng còn có ích gì cả,” tôi cười cợt nói, thổi vào trong thanh que và khiến hình bóng của cả bọn đu đưa trong ánh lửa bập bềnh.
“Đúng, ơ không…” bà trầm ngâm. “Có lẽ đã được khoảng ba năm kể từ khi sự suy sụp mana.”
“Suy sụp mana?”
Câu hỏi không đến từ tôi mà là Ned. Ông hỏi với ánh mắt hiếu kỳ, như thể một đứa trẻ vừa nghe tới một từ vựng mới. Nito bối rối nhìn ông ấy. Đó hẳn là kiến thức phổ thông; trong khi tôi đến từ thế giới khác và hiển nhiên là không biết, thì Ned đáng ra phải biết.
“Đó là khi thế giới đột ngột tràn ngập mana và rất nhiều người biến thành pha lê,” Julie nhẹ nhàng giải thích.
Mắt của Ned trở nên căng tròn.
“Điều đó đã xảy ra hả? Nghe thật kinh khủng. Vậy em ở đây là để chạy thoát khỏi sự suy sụp mana ấy à?”
“Anh cũng đi với em mà, Ned.”
“À, vậy ư?” Ông hỏi, ngưng một lát trước khi nói tiếp, “Phải, đi với. Bố đâu rồi?”
“Bartley qua đời vào bốn mươi năm trước rồi.”
“Ổng gì cơ? Bố chết à? Nghe tệ thật,” Ned la lên, đưa tay lên trán. “Đó là vì sao anh bảo ổng bớt uống đi. Anh sẽ phải xuống tàu và nối dõi ổng. Đợi đã, anh sẽ đi nói chuyện với thuyền trưởng.”
Ông đột ngột đứng dậy và phóng nhanh về phía chiếc xe của mình. Cuộc hội thoại có một sự không tương xứng rõ ràng, và Ned đang hành động kỳ quặc. Tất cả những gì Nito và tôi có thể làm là ngây người nhìn ông.
“Xin lỗi, đó hẳn là một cú sốc,” Julie nói với chúng tôi. “Những chuyện như này càng xảy ra thường xuyên hơn trong năm năm gần đây. Bác sĩ nói rằng đó là một căn bệnh ảnh hưởng đến não. Ổng quên rất nhiều thứ, và sau đó sực nhớ lại chúng, và đôi khi ổng còn có những đợt như thể mình đã quay về quá khứ. Ổng từng là thủy thủ trên một con tàu hơi nước lớn khi còn trẻ. Thế nhưng lại từ bỏ để gánh vác gia đình khi bố mất. Có vẻ như ổng đã trở về khoảng cuộc đời ấy.”
Tôi từng nghe về căn bệnh và rối loạn tương tự trước đây, giống như bệnh đãng trí vậy. Mặc dù đây rành rành chẳng nghe giống thế, nhưng tôi có thể nắm được khái niệm của việc ký ức biến mất khỏi đầu ai đó, nên tôi có thể dễ dàng chấp nhận lời giải thích của bà ấy.
“Ùm, ông ấy có quên bà luôn không?” Nito hỏi.
Chân mày Julie hơi hạ xuống, để lộ ra cảm xúc mâu thuẫn của mình, trước khi trả lời.
“Dường như ổng thường quên khoảng cuộc đời sau khi cả hai kết hôn. Bà tin là, ổng hay xem bà như một người bạn đồng hành cùng mình. Cũng có những lúc ổng quên bén bà như vừa rồi.”
Tôi không biết nên nói gì. Tôi chẳng chắc chắn liệu mình có thể tóm gọn nó trong “nghe tệ thật” không. Dẫu tôi muốn nói lên gì đó để an ủi bà ấy, nhưng mọi thứ tôi có thể nghĩ ra nghe như thể lời đồng cảm cũ mèm, và thế là tôi giữ im lặng. Julie dường như nhận thấy mâu thuẫn bên trong tôi, và bà chỉ lắc đầu rồi bảo tôi đừng bận tâm.
“Bà quen nó rồi,” bà nói tiếp nữa. “Bên cạnh đó, nó có thể vô cùng vui. Tựa như bà cũng trẻ lại cùng với ổng vậy.”
Tôi có thể cảm nhận được tình cảm sâu đậm mà chỉ xảy đến một đôi vợ chồng quen sau nhiều năm. Sẽ thật là thô lỗ nếu những người ngoài cuộc như bọn tôi tỏ ra cái vẻ cảm thông khoa trương ngay chính diện cảm xúc được vun đắp trong suốt đời người ở bên ông ta.
“Bà không… đơn độc mà?” Nito hỏi.
“Đôi khi thôi. Hơi đáng tiếc khi cả hai không thể qua lại về kỷ niệm bên nhau. Hai người chẳng thể động lòng về những lần mọi thứ trở nên khó khăn,” Julie nói, sau đó mỉm cười và tiếp tục. “Thế nhưng ngồi hồi tưởng về ngày xưa lại không vui đến vậy đâu. Đối với hai người thì cư xử kém hơn nhiều so với độ tuổi của mình và tiếp tục chuyến hành trình để tạo nên những kỷ niệm mới còn vui hơn nhiều. Vậy nên bà ổn, Nito à, nhưng cảm ơn vì đã biết lo lắng.”
Nito xấu hổ quay mặt đi khi bị đối xử với sự quan tâm như vậy trong khi cô đang cố tỏ vẻ quan tâm. Tiếng bước chân phát ra từ hướng chiếc xe của hai người ấy, và khi chúng tôi nhìn sang, đó là Ned đang trở lại.
“À, xin lỗi về chuyện ấy. Ta đến chiếc xe làm gì nhỉ?” Ông hỏi, với một biểu cảm có phần băn khoăn trên khuôn mặt.
“Ồ, chẳng phải anh đang kiếm bát đĩa hay sao? Để chúng ta có thể dọn thịt ra,” Julie nhẹ nhàng lên tiếng, khiến mặt Ned hửng lên.
“Phải ha, là nó. Chuẩn luôn, bát đĩa,” ông nói, liền quay lưng lại.
Julie tự tha thứ cho mình và theo sau ông ta. Chẳng bao lâu sau, chúng tôi có thể nghe rõ được tràn cười khi họ chuyện trò. Nito và tôi nhìn vào nhau và không khỏi không chia sẻ nụ cười.
3
Đồng hồ của tôi có bốn nút. Tôi sờ soạng cái trên cùng bên phải và nhấn nó, làm rạng mặt số và để lộ ra vị trí của kim đồng hồ. Hiện đang khoảng mười một giờ đêm. Tôi lật người và nhìn chằm chằm vào ánh sáng mờ nhạt của ánh trăng đang rọi qua vải lều.
Bữa ăn cùng Ned và Julie kéo dài tới chừng chín giờ, kết thúc khi mí mặt của Nito trở nên nặng trĩu và cô bắt đầu ngủ gật. Cả hai người họ đã trở lại chiếc xe của mình, Nito thì Kettle, và tôi thì chui vào lều như bao lần. Tôi tưởng mình sẽ thiếp đi ngay sau khi nằm xuống, nhưng tôi giờ đây đã thức được hơn một giờ và giấc ngủ vẫn chẳng thấy đâu cả. Không có gì để làm, và thế là tôi cứ nằm đơ đó.
Xét đến toàn bộ công việc lái xe phải làm vào buổi sáng, tôi muốn ngủ no giấc. Ngay cả với ý nghĩ như vậy trong tâm trí, cứ hễ tôi thử nhắm mắt là suy nghĩ sẽ chạy quanh quẩn trong đầu cho tới khi tôi từ bỏ hẳn và mở chúng lại. Tôi có nhiều đêm mất ngủ như thế này, mãi đến gần sáng mới có thể chợp mắt được.
Chẳng phải là suy nghĩ suốt đêm về điều mà tôi thực sự thấy thích. Ngay cả với món ăn ngon miệng và cuộc trò chuyện vui vẻ, hay thậm chí có thể là do sự nhộn nhịp hồi chiều—nằm một mình và lo lắng làm chùn đi tinh thần của tôi. Tôi có một mục tiêu, và tôi hướng đến nó. Tôi không cần phải suy nghĩ về bất kỳ điều gì khác.
Những lời lẽ của tôi mơ hồ ngay cả đối với tôi.
(Phù thủy…)
Chính thế giới có một thứ cảm giác không đáng tin cậy, như thể cây kẹo bông gòn mềm mại quay từ trong chuyện cổ tích. Phù thủy này sẽ trả lời chính xác mọi câu hỏi. Một người như vậy thực sự tồn tại sao? Có lẽ vậy. Suy cho cùng, đây là thế giới khác. Tôi chẳng thể bảo là nó nên tuân theo quan niệm lẽ thường tình của mình.
Bọn tôi sẽ đi gặp phù thủy. Và rồi sao nữa? Bọn tôi nên đi đâu từ đấy? Và rồi từ đấy nữa? Và rồi…
Có một mục tiêu cuối cùng cho bọn tôi không? Hay là bọn tôi sẽ cứ đi lanh quanh thế giới cho tới khi thời gian của hai người đạt giới hạn—có lẽ khi mà sự tràn ngập mana của thế giới này nuốt trọng cơ thể của một trong hai người và biến bọn tôi thành pha lê?
Ký ức về bãi pha lê trên ghế tài của chiếc xe tải ấy thoáng hiện qua tâm trí tôi. Ở đó có một đống đồ ăn và nhu yếu phẩm hằng ngày trong thùng hàng hóa, cùng với một tấm bản đồ vẽ tay bị gấp lại. Người ấy đã chuẩn bị kỹ càng và đang hướng đến một mục tiêu. Có mỗi một mục tiêu và một lộ trình để tới đó thôi thì chưa chắc hẳn bạn sẽ đến được. Vậy nên còn ý nghĩa nào để mà cố gắng chứ?
Tôi vực người dậy và kéo chiếc thùng gỗ được tôi mang vào trong lều lại. Nó đựng Svea—đêm nay thì không dùng đến—và các dụng cụ nấu ăn khác. Tôi lục lọi hết tất cả và lôi ra một hộp nhất định. Ngồi vắt chéo chân, tôi đặt nó lên đùi và mở cái gài kim loại. Một khẩu súng màu đen ánh lên trong ánh trăng yếu ớt đang lọt qua lều. Tôi duỗi một ngón tay ra và vuốt dọc theo nòng súng. Cảm giác của kim loại lạnh lẽo cảm thấy như thể một nguyên lý thực tế không thể lay chuyển, như thể một thứ mà tôi có thể dựa dẫm.
Tiếng bước chân lạo xạo trên cát phát ra từ phía trước lều. Tôi nhanh chóng đóng hộp và căng hai tai để nghe. Ai đó đang từ từ tiếp cận, cẩn thận không gây ra tiếng động nào. Tiếng bước chân dừng tại cửa lều, và một hình bóng ngả mình khắp tấm vải.
Một khoảng lặng dài.
“Mình tự hỏi nó còn thức không ta?”
Đó là giọng của Ned.
Gặp phải một vị khách vào quá khuya thật đáng sợ đối với trái tim của tôi. Tôi hà một hơi bị nín nãy giờ và đặt chiếc hộp vào lại thùng gỗ.
“Sao thế ạ?” Tôi hỏi, kéo dây khóa.
Ned đứng đối diện tôi, với một biểu cảm kinh ngạc trên khuôn mặt.
“Xin lỗi, cháu có lẽ đang ngủ,” ông xin lỗi.
“Không, cháu chỉ đang nằm thôi. Không thể nào ngủ được.”
“Vậy sao. Thế thì tốt rồi.”
Xét về lời nói có phần ngập ngừng, ông ta hẳn muốn nói chuyện gì đó với tôi. Nó hẳn khá quan trọng đối với ông khi đến gặp vào lúc nửa đêm.
“Muốn vào trong không ạ?” Tôi hỏi sau hết. “Thế nhưng lại chẳng có nhiều chỗ lắm.”
“Ta… Thật ra, cháu không phiền chứ?”
Tôi im lặng lùi đi, bật chiếc đèn bão được tôi để bên cạnh. Ned cúi người, gấp thân hình cao của mình vào trong lều và nheo mắt trước ánh sáng trắng tinh từ chiếc đèn pin.
“Thứ ấy thật tuyệt diệu. Từ thế giới cháu à?”
“Vâng. Nó không phải cái đẹp nhất, nhưng mà nó tiện lợi.”
Ned chần chừ ngồi xuống. Hình bóng của chúng tôi trải khắp mái lều dốc đứng.
“Ta… có một thỉnh cầu nè,” Ned rốt cuộc cũng bắt đầu, nhìn vào tôi. “Ta muốn cháu để ta đi cùng với cả hai cháu.”
Tôi còn không thể nêu ra một lời phản ứng; chỉ dòm lại ông ấy, há hốc mồm.
“Nó sẽ không mãi mãi, sẽ chỉ cho tới khi cháu kiếm được một ngôi làng hay thị trấn thôi,” ông nói tiếp.
Tôi nghĩ nó là một lời nói đùa được một lúc, nhưng ông ấy trông rất nghiêm túc. Ông thực sự đang cố gắng tách xa Julie. Tôi chẳng hiểu tại sao ông lại nói một điều như vậy khi mà cả hai người họ dường như đang trong một mối quan hệ rất tốt.
“Tại sao ạ?” Tôi gắng hỏi, không thể nói gì dài dòng hơn câu hỏi đơn giản đó.
Ông làm một nụ cười ngượng nghịu trước khi đập tay vào thái dương hai lần.
“Julie đã kể cháu, phải không? Ý là, về vấn đề của ta.”
Tôi ngập ngừng được một lúc. Có lẽ ông ấy không thích việc bọn tôi được kể với không sự hay biết của mình. Thế nhưng nói dối lại chẳng làm tôi thấy khá hơn chút nào.
“Vâng, bà ấy đã.”
“Mọi chuyện bắt đầu chỉ bằng việc ta quên nơi để đồ đạc và bỏ dở công việc… Ta hiểu điều đó xảy đến mọi người khi họ già đi. Bố cũng đã như vậy khi ổng già hơn, nên ta đã không bận tâm tới nó. Thế nhưng khi thời gian trôi qua, ta để ý rằng mình đang dần quên nhiều thứ hơn. Những thứ như những gì ta đọc được trong sách vào hôm qua, hay kể cả tên của những người bạn làm cùng mình trong nhiều năm. Rốt cuộc, ta cũng đạt đến độ chẳng biết mình đang làm gì ở chỗ làm, và thế là ta nghỉ hưu.”
Ned nói một cách thiết thực, như thể đang bàn luận với một người khác.
“Từ đó ta bắt đầu giữ một cuốn nhật ký bên mình. Nếu đọc lại nó thì ta có thể nhớ được rất nhiều điều. Đó là cách để ta có thể bàn luận với cháu như thế này đây. Nếu không có nó thì ta sẽ quên những gì mình đã quên và trở thành một cái vỏ rỗng.”
Ông ngưng được một hồi, sau đó nói tiếp bằng một tông giọng buồn bã.
“Ta là một kẻ xấu, Keisuke à,” ông bảo tôi. “Ta thấy vui khi thế giới sụp đổ.”
Nụ cười trên mặt ông trông chẳng hề vui vẻ chút nào.
“Nhật ký nói ta từng thành công,” ông giải thích. “Ta vực doanh nghiệp sản xuất rượu vang được kế thừa từ bố ra khỏi nợ nần. Ta có rất nhiều nhân viên và bán rượu ra khắp thế giới. Ta còn được trao vinh hạnh diện kiến chúng trước gia đình hoàng gia. Thế nhưng ta chẳng nhớ gì về chúng. Ta chỉ biết chúng về mặt trí thức, từ việc đọc cuốn nhật ký nhìn như chữ viết tay của mình. Ta biết mình rốt cuộc cũng sẽ quên mất cách đọc, bị bỏ lại phía sau bởi sự chuyển động của thời gian và bị thương hại bởi mọi người xung quanh vì trở thành một người không phải mình cho tới khi mình chết hẳn—ta chỉ không thể chịu được điều đó. Cháu hiểu chứ? Mọi người cứ nhìn vào ta và nói điều đó thật đáng tiếc, nhưng ta thậm chí còn không hiểu tại sao họ lại nói vậy.”
Giọng ông hơi trầm xuống.
“Và thế là ta thấy khuây khỏa khi cuộc sống bình thường vỡ vụn cùng sự suy sụp mana. Giờ đây những người từng thương hại ta sẽ biến mất, cùng câu ‘Ned già yếu đáng thương’ nữa. Ta có thể chết với ký ức còn đọng trong đầu. Đó từng là những gì ta nghĩ, nhưng nhìn ta lúc này đây.”
Ông giang hai tay, nhe răng như một chú hề trên sân khấu.
“Cả thế giới và bà của ta đã tan biến thành những viên pha lê màu trắng tuyệt đẹp, ấy thế mà ta vẫn ở đây, thậm chí chẳng có gì để mất khi chết. Ta còn chẳng biết đến Julie nữa cơ. Ta từng yêu bả rất nhiều; đối với ta thì bả là người quý mến nhất trên thế gian. Thế nhưng mọi tình yêu ấy mà ta vốn có á? Toàn bộ chỉ là câu từ trên trang giấy.”
Ông hết hơi tại đó, và sự im lặng rũ xuống giữa chúng tôi. Ned hít thở sâu, chậm rãi, vai ông nâng và hạ cùng từng nhịp. Tôi cứ im lặng ngồi đó. Tôi không tưởng tượng được nổi cơn đau và những gánh nặng đã đeo bám ông. Nó quá sức đối với tôi.
“Xin lỗi vì nói hết ra như thế. Nó là một thói quen xấu mà ta có ở tuổi già,” ông xin lỗi.
“Không sao đâu ạ,” Tôi xoay sở sau một hồi.
“Dù sao đi nữa, ta không thể ở bên bà ấy nữa. Việc ta ở đó chẳng có nghĩa lý gì khi ký ức về bả cứ vuột đi. Đó là tại sao ta muốn cháu dẫn ta theo cùng.”
Ông kết thúc bằng một cái cúi đầu thật sâu. Tôi chưa từng nhận một lời thỉnh cầu nghiêm túc như vậy từ ai đó già hơn nhiều so với mình trước đây. Ông ấy có nhiều kinh nghiệm hơn cả tôi. Ông từng làm việc trong hàng thập kỷ, và tôi không biết có bao nhiêu quyết định khó khăn mà ông đã phải đưa ra.
Tôi có lẽ không nên trả lời ông với lòng tự cao như vậy. Đây là kết luận mà ông tự chính mình quằn quại trong suốt một thời gian dài, và có lẽ điều duy nhất mà tôi đáng ra nên làm là tôn trọng quyết định ấy. Tuy nhiên, thành thật mà nói thì tôi không nghĩ mình có thể vác lấy trách nhiệm đó. Dẫu lý do ông là gì, làm theo thỉnh cầu ấy tức là sẽ tách rời cuộc sống của họ.
Hình ảnh Julie trong bữa ăn thoáng hiện qua tâm trí tôi. Tôi có thể thấy cái nhìn trên mặt bà khi bà nói về Ned. Nó khác xa với khuôn mặt của một người đang đau khổ vì hoàn cảnh hiện tại của mình.
“Ông nói gì với Julie về chuyện ấy chưa ạ?”
Ned lắc đầu, một nụ cười khẽ nhạt nhòa nở trên môi ông. Đó là nụ cười của một người đàn ông đã từ bỏ mọi thứ.
“Bả sẽ không để ta đi đâu. Bả tốt bụng. Tốt bụng đến mức ở cùng ta, cùng một thằng già khờ khệch hay quên.”
Tôi chẳng chắc chắn mình có nên nói điều này hay không. Nó có lẽ thô lỗ. Ấy thế mà tôi lại quyết định nói nó, không chỉ để bảo vệ bản thân mình mà còn bởi biểu cảm của Julie đã ăn sâu thẳm vào đầu tôi.
“Ned, ông nên nói chuyện này với Julie. Ông đang chơi trò thằng khờ ở đây đấy.”
Có lẽ tôi không nên gọi ông là thằng khờ. Khoảnh khắc lời lẽ lướt qua môi tôi cảm thấy như thể tôi đã làm một điều gì đó không rút lại được. Dù vậy, lời lẽ ấy đã tới ông ta, và ông căng tròn mắt nhìn lại vào tôi.
“Ông có thể đánh mất những ký ức đó, hay có lẽ cảm xúc của ông quay trở lại những hồi trẻ tuổi, nhưng mà đấy chẳng phải lời bào chữa. Ông đang cư xử như một học giả nào đó tự cho mình là đúng, rằng đang thuyết phục anh ta có mọi câu trả lời. Nghĩ về Julie cảm thấy sao hơn là tính ủy mị của riêng ông đi. Chuyện gì sẽ xảy đến bà ấy nếu ông không có ở đấy?”
Biểu cảm trên mặt ông khiến ông trông trẻ ra hẳn. Ông trông giống một học sinh hậu đâu, chẳng biết gì về xã hội, hơn là một người lớn dày dặn kinh nghiệm—gần như thể một người bạn đồng trang lứa với tôi.
“Cháu không thể mang ông theo bọn cháu. Cháu nghĩ ông và Julie đều là hai người tốt. Cháu chẳng thể làm những việc có thể khiến một trong hai người tổn thương… hay thậm chí là cả hai người.”
Máu ào ào trong tai khi tôi nói xong. Một cảm giác trào dâng kỳ lạ tựa đứng trên vách đá chiếm lấy tôi, và tôi cảm thấy gần như thể mình sắp nôn mửa vì lo lắng.
Ned bật ra một tiếng “hiểu rồi” và sau đó lặng thinh được một lúc.
“Ta không biết liệu lối nghĩ quá ích kỉ là cách mình luôn vậy không, hay là một nét mà ta có được do đánh mất ký ức,” ông rốt cuộc cũng nói.
“Một học giả tự cho mình là đúng hở?” Ông nói tiếp, bật ra một tiếng cười hợt. “Có lẽ cháu đúng ở ngay đấy.”
Tôi chẳng biết nên nói gì được một lúc, loay hoay mãi tôi mới nghĩ ra lời xin lỗi.
“Ùm, xin lỗi ạ, cháu đã đi quá xa ở đấy.”
Ông vẫy tay với tôi, rồi vì lý do kỳ quặc nào đó mà ông quay sang tôi với cái nhìn như được tiếp thêm sinh lực.
“Ta sẽ luôn biết ơn người nào cho ta biết làm sao mà mọi chuyện lại như vậy,” ông nói. “Cháu nói đúng, Keisuke. Ta đã nghĩ quá nhiều cho bản thân mình. Ta lo nghĩ rằng bả rồi cũng sẽ bỏ rơi ta. Mặc dù vậy, ta đáng lẽ phải nói với bả đầu tiên trước khi hỏi cháu những chuyện như này.”
“Ta quả thực là một thằng khờ,” ông nói thêm, với một tiếng cười. “Đã được một khoảng thời gian kể từ hồi ai đó gọi ta như vậy.”
Tôi nép mình xin lỗi, cũng như tiếng cười khoái chí của ông tiếp diễn, song ông chỉ bảo tôi đừng bận tâm về nó.
“Quái thật,” ông nói, ngồi dậy. “Ta từng lo lắng rất nhiều về nó, nhưng giờ ta thấy thoải mái rồi. Ta sẽ đi nói với Julie trước khi quên mất mình cảm thấy ra sao.”
Thái độ của ông thay đổi như trời quang mây tạnh sau một trận mưa rào thình lình. Ông đưa tay ra khỏi lều, đứng khựng tại cửa, “Xin lỗi vì làm phiền cháu vào đêm khuya. Cảm ơn vì cuộc trò chuyện nhé. Chúc ngủ ngon,” ông lắp bắp và sau đó rời đi, âm thanh chạy nhỏ bé của tiếng bước chân đuổi theo sau ông.
Tôi chỉ có thể quan sát sự thay đổi trong ông ấy và sau đó là sự rời đi của ông, bị bỏ lại phía sau và lúng túng. Sau đó một cơn mệt lử bất giác đè lên vai tôi. Tôi không biết liệu sự việc ông đột ngột hửng lên là do tính cách của ông, hay là do một thứ mà ông đạt được để đổi lấy những ký ức ấy. Dù sao thì, tôi thấy ghen tị.
Ấy thế mà tôi lại hối hận về những gì mình đã nói với ông ta. Nó chẳng phải lời khuyên chân thành, và có lẽ tôi còn có thể nói ra những điều khác. Dẫu vậy, tôi chỉ có thể cầu rằng mọi chuyện sẽ diễn ra tốt đẹp tới ông.
Tôi tắt đèn và nằm xuống. Lạ thay, tôi cảm thấy giấc ngủ ập đến trong chốc lát.
4
Bữa sáng đã sẵn sàng vào lúc tôi thức dậy. Tôi hoàn toàn ngủ quên.
Ned và Julie vẫn cư xử như cũ, nhưng Nito thì thất vọng nhìn tôi. Chúng tôi thưởng thức bữa sáng được họ làm trước khi bắt đầu chuẩn bị lên đường.
“Đi theo con đường này, và sẽ có một giao lộ khi ông băng qua ngọn núi. Quanh đấy có một phân xưởng hơi nước,” chúng tôi đứng tụ tập quanh tấm bản đồ, và tôi bảo họ. “Có một người đàn ông sống ở đó tên là Vandyke, vậy nên ông sẽ có thể sửa được xe của mình và bổ sung đồ.”
“Ông ta là hơi nước hay sương mù vậy?” Ned hỏi.
“Ý ông là sao ạ?”
Julie nhẹ nhàng mỉm cười cũng như viết sự việc xuống một cuốn sổ.
“Đó là một thành ngữ cũ,” bà bảo tôi. “Từng có một sự chênh lệch lớn giữa tay nghề của các thợ cơ khí. Nếu họ lành nghề thì hơi nước sẽ xả ra dưới dạng hơi, còn nếu họ dở thì cháu sẽ nhận được một luồng sương mù và động cơ sẽ không bao giờ hoạt động được nữa.”
Nếu đó là những gì họ muốn biết thì tôi có thể tự tin trả lời.
“Ông sẽ nhận được hơi nước tuyệt nhất từ trước đến nay.”
“À rồi, à rồi.” Ned gật đầu. “Ông sẽ yên tâm nếu nghe điều đó từ cháu.”
Khi gấp lại tấm bản đồ, tôi lén lút quan sát Ned. Đêm qua cảm thấy gần như thể một giấc mơ, nhưng nó chẳng thể đúng như vậy được. Tôi muốn hỏi chuyện gì đã xảy ra sau đấy, nhưng tôi cũng hơi sợ để hỏi.
Ned để ý đến vẻ mặt đang tự gây gổ của tôi và nháy mắt với tôi. Sau đó ông làm một điều là lạ—ông quỳ một bên đầu gối xuống, cầm lấy tay Julie. Bà nhìn lại vào ông trong bối rối.
“Julie à, anh chưa từng gặp một người tuyệt vời như em, trước khi đánh mất ký ức hay bây giờ. Anh vẫn sẽ mãi mãi yêu em, kể cả nếu anh quên đi mọi thứ. Em kết hôn với anh… một lần nữa được không?”
Tôi nghe thấy một tiếng thở thé kế bên. Nito đứng đó đang lấy cả hai tay che miệng, hai tai cô ửng đỏ. Tôi cũng cảm thấy giống cách cô trông ra sao. Lời cầu hôn của ông ấy tràn đầy cảm xúc và chỉ nghe nó thôi cũng khiến tôi thấy xấu hổ. Mặt của Julie nắn thành một nụ cười, và đó là nụ cười của một cô gái trẻ trung duyên dáng.
“Vâng, vâng ạ. Tất nhiên là vậy rồi. Em muốn. Tuy nghe ngộ nghĩnh, Ned. Em chưa từng ngỡ rằng mình sẽ nhận được một lời cầu hôn ở tầm tuổi này hồi còn trẻ.”
Ned đứng lên lại và tới gần bà. Cặp đôi tóc bạc đều mang một nụ y hệt nhau trên mặt.
“Điều đó khiến cuộc sống thú vị, phải không? Chúng ta cũng chưa xong đâu. Chúng ta vẫn phải đi đây đó nữa. Hãy cùng nhau ngắm nhìn thế giới nhé!”
Julie vui vẻ cầm lấy tay Ned.
“Điều đó nghe tuyệt thật,” bà nói.
Hai tay Nito chắp lại nhau thành tràn pháo tay đầy nhiệt huyết, chẳng mấy chốc, tôi làm theo.
“Ôi, em thấy xấu hổ quá đi,” Julie nói. “Chúng ta đang không thực sự cư xử đúng tuổi.”
Nito lắc đầu mạnh, quất tóc mình vào tay tôi vài lần.
“Không phải vậy đâu. Nó tuyệt lắm ạ!” Cô một mực.
“Trời, trời. Nó làm ấm trái tim bà khi nghe thấy điều đó từ cháu đấy, Nito,” Julie đáp, ngả người xuống để túm lấy tay Nito. “Cháu cũng tận hưởng chuyến hành trình của mình nhé. Thế giới đã trở nên tĩnh lặng hơn nhiều, nhưng nó vẫn đẹp đẽ.”
“Vâng,” Nito trả lời sau một hồi.
Trong khi cả hai người họ nói chuyện, Ned rón rén đi tới chiếc xe của mình và vẫy tay kêu tôi theo sau.
(Hửm, ông ta muốn gì vậy nhỉ?)
Tôi bước tới chỗ ông. Khi đến nơi, ông truyền tôi một túi da dày và dài. Tôi nhận lấy nó, sửng sốt, và ngước nhìn lại ông. Ned mỉm cười cũng như lên tiếng.
“Đó là que thổi lửa. Ta muốn cháu nhận nó.”
Khoảnh khắc xử lý được những điều ông nói, tôi cố trả lại nó.
“C-Cháu không thể lấy thứ này ạ. Nó tuyệt mà.”
“Phải, phải, nó nhất định tuyệt rồi.” Ông vừa lòng gật đầu.
(Không, đó chẳng phải ý cháu.)
Tôi hiểu quá rõ tất cả vào lúc cầm nó đêm qua. Cán vừa vặn trong tay Ned. Nó là dụng cụ được ông giữ từ năm này sang năm nọ, điều đó làm tăng giá trị của nó. Bất kể bạn có bao nhiêu tiền đi chăng nữa, bạn vẫn không thể mua thời gian và công chăm sóc như là mua đá quý. Bất chấp thế, Ned vòng tay tôi quanh que thổi.
“Cháu biết không,” ông nói, “Ta đã từng gặp một người từ thế giới khác trước đây.”
Bất chợt, tôi cạn lời.
“Thật là lạ. Ta đã quên rất nhiều thứ, ấy thế mà ta vẫn nhớ kỹ nó. Vào lúc bố ta vẫn còn sống, ổng có lần mang theo một cậu trai về nhà. Cậu tự xưng là Albert; cậu ta sống cùng bọn ta trong cả mùa hè và phụ giúp làm rượu, vẽ tranh, và cưỡi ngựa. Cậu là một người hay tươi cười, với đủ thứ câu chuyện kỳ lạ. Một ngày nọ, cậu ấy bảo ta—không một ai khác—rằng mình đến từ thế giới khác. Không lâu sau đó, cậu biến mất.”
“Cháu… tại sao chứ?”
Ned lắc đầu.
“Ta không biết nữa. Thế nhưng hồi đó, mọi quốc gia trên thế giới đều muốn những người từ thế giới khác. Ta nghĩ cậu ta đã đào tẩu khỏi một quốc gia nào đó, và rời vì không muốn gây nên bất kỳ rắc rối nào cho bọn ta.”
Anh ta đã bỏ trốn sao? Tại sao chứ? Tại sao anh ấy lại chạy? Quốc gia không bảo vệ anh ta hả?
“Cậu là người đã trao ta chiếc cán ấy. Ta tạo hình và đem nó bên mình kể từ đó. Ban đầu chiếc sừng là từ một con Fout, sinh vật sống trong rừng thẳm và dường như chỉ có thể bị săn bởi Elf. Ta vẫn không biết vì sao cậu ta lại tìm được nó…”
Ned lắng giọng, nhìn về chiếc túi trong tay tôi và dụng cụ bên trong nó.
“Khi cháu bảo ta mình là một người từ thế giới khác,” ông nói tiếp, “ta biết rằng mình sẽ đi xa tới dường này để trao được nó cho cháu. Thứ được nhận từ người ở thế giới khác nên được để lại cho người ở thế giới khác. Việc đưa lại nó cho cháu cảm thấy ý nghĩa đối với ta.”
Với tay—ở nơi ông đã để—vòng quanh nó, tôi chẳng thể đẩy nó về lại.
“Ông chắc chứ ạ? Nó quý giá đối với ông mà, phải không?”
“Đó chính là vì sao ông muốn cháu giữ nó. Chẳng bấy lâu nữa thì ta xuống lỗ mất rồi, và sau đó nó sẽ trở thành gì? Một que thổi cũ kỹ không ai dùng đến. Thế nhưng nếu cháu dùng nó, cháu có thể mang theo những suy nghĩa và ký ức của ta, và thế là nó sẽ vẫn như hiện tại đây. Điều đó không tuyệt vời sao? Cháu làm điều đó dùm ông chứ?”
Tôi gật đầu để trả lời câu hỏi của ông.
“Tuyệt. Giờ thì, hãy nói về chi phí của chỗ đá mana mà cháu đã chia sẻ với bọn ta.”
Ned mở cửa hông xe, để lộ ra nơi thường có ghế sau. Chúng đã bị tháo dỡ, và thay vào đó là nơi cất những vật như hộp gỗ và thùng. Cũng như một tấm nệm nằm nghiêng sang một bên, có lẽ là dùng như chiếc giường khi đêm đến. Quần áo và nhiều thứ linh tinh khác treo trên những bức tường bên trong, tạo nên một không gian tĩnh lặng gần giống như phòng ngủ. Ned nhấc nắp của một chiếc thùng ngồi ngay đối diện lên.
“Ta đề nghị cái này,” ông nói.
Sắp thành hàng bên trong là những chai rượu vang. Các chai màu đen và lá thẳm đều được gán những cái mác bạc màu.
“Ta đã làm ra toàn bộ chúng,” ông bảo tôi.
“Ông biết cháu không uống được mà, phải không?”
“Ở đây độ tuổi được uống là mười lăm. Hơn thế, rượu là phương thuốc tốt nhất cháu có thể kiếm được. Tuy nhiên, cháu không nên uống cho tới khi được chừng mười tuổi. Bên cạnh đó, mục đích của chúng là gì nếu không một ai uống chứ?”
Ned lấy ra một chai và xoa ngón cái của mình lên trên cái mác.
“Chai này là chai rượu nho bốn ba tuổi. Bọn ta thất mùa vào năm ấy và thu hoạch được rất ít rượu. Tuy nhiên hương vị của những gì bọn ta thu được lại đặc biệt. Le Touant này là chai ta thu được đầu tiên.”
“Hử?”
Từng chai một, ông lần lượt kể về chúng. Tôi chẳng quen lắm với mấy chai rượu, nhưng toàn bộ chúng đều nghe tuyệt vời dựa vào những mô tả của ông. Rốt cuộc Ned cũng bình tĩnh lại và ngượng nghịu gãi nhẹ đầu.
“À, xin lỗi vì điều đó. Đã được một khoảng thời gian kể từ hồi ta có dịp nói về rượu của mình, vậy nên ta hơi bị mất tự chủ. Dù sao đi nữa, ta đã làm ra toàn bộ chúng, và ta chắc chắn rằng bất kỳ người nào thích rượu cháu gặp sẽ có thể nhận ra.”
“Thế thì càng nghe cháu càng không nên lấy chúng. Cháu còn không biết cách làm ra rượu ngon cơ mà.”
“Cháu có thể không, nhưng ai đó cháu gặp có thể sẽ. Cháu sẽ làm gì nếu họ có thứ cháu muốn trao đổi?”
Tôi há mồm vì nhận ra.
“Cháu có thể bới tung thị trấn để kiếm tiền và đá quý. Thành ra thứ duy nhất thực sự còn giá trị là những vật cháu có thể trao đổi với giá trị tương đương. Ai đó am hiểu rượu sẽ coi những thứ này như châu báu, vậy nên chúng rồi cũng sẽ tỏ ra hữu ích,” Ned nói thêm, trêu chọc bằng một cái nháy mắt.
Tôi lưỡng lự được một hồi trước khi đưa ra câu trả lời.
“Thế thì cháu sẽ chấp nhận đề nghị của ông.”
“Được rồi. Lấy cái này đi.”
Tôi nhận lấy một chai rượu màu đen được ông chọn. Ông ấy sau đó lấy thêm một chai khác ra và đưa cho tôi.
“Và đây là vì lời khuyên nhiệt tình của cháu. Nhờ cháu, mà ta vượt qua được chuyện này mà không đánh mất một thứ còn quý mến hơn cả ký ức của mình.”
5
Một khi lò hơi nóng lên, họ lên xe và chúng tôi chuẩn bị tiễn họ.
“Hai cháu giúp ích bọn ta lắm,” Ned bảo chúng tôi. “Ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra nếu hai cháu không ở đó chứ? Bọn ta rất vui khi được gặp hai cháu.”
“Cháu cũng thế. Cảm ơn vì tất cả,” tôi trả lời.
“Nếu đi theo con đường này trong vòng hai ngày, cháu sẽ tìm thấy một thị trấn có tên Barcia. Nếu bọn cháu cần thứ gì đó, thì hãy lấy tại đấy.”
“Vâng ạ. Cháu đang nhớ giường,” tôi thừa nhận.
“Cháu cũng thế,” Nito chen vào.
Tất cả chúng tôi cùng nhau cười. Tôi có thể cảm thấy lời chào chia tay đang đến gần. Nhưng trước đấy, có một chuyện mà tôi muốn hỏi.
“Ùm, nó chỉ là một chuyện cỏn con thôi, nhưng tại sao ông lại trang trí xe mình như một con voi vậy?”
Mặt Ned đỏ bừng như trẻ em.
“Cháu biết voi luôn à! Vậy là ta đã làm đúng nó. Tuyệt thật! Cậu ta cũng đã kể cho ta về nó. Cậu nói rằng những căn nhà hơi nước cần phải giống voi. Sau đó cậu vẽ một bức tranh và cho ta xem.”
Tôi cảm thấy hơi khó xử trước tiếng kêu vui mừng liên hồi của ông. Tôi không hiểu những điều ấy có ý là gì. Thế nhưng tôi lại cảm nhận được rõ tới mức không nói ra.
“Tới giờ bọn ta khởi hành rồi. Cả hai cháu bảo trọng nhé,” ông cuối cùng cũng nói.
“Vâng. Chúc hai ông bà mạnh khỏe.”
Ned giơ tay ra khỏi cửa sổ và tôi nắm lấy nó, làm một cái bắt tay. Julie ngả người ra khỏi ghế phụ và mỉm cười vẫy tay. Nito vẫy tay đáp lại. Tiếng gầm ầm ĩ của hơi nước vang vọng quanh chúng tôi khi pít-tông bắt đầu chuyển động, phát ra âm thanh còn ồn hơn cả Kettle. Xe họ dần dần di chuyển và bắt đầu leo lên ngọn núi mà bọn tôi đã chạy xuống vào hôm kia. Chẳng bao lâu, hình bóng của nó bị che hẳn bởi hàng cây.
Một khi họ rời đi, âm thanh còn lại chỉ là tiếng lá xào xạc. Sự yên lặng càng khiến sự cô lập thêm phần rõ rệt. Tôi trèo lên Kettle, nhưng Nito thì vẫn cứ bám trụ tại chỗ, dõi theo đôi vợ chồng. Cô bất chợt nảy mình khi tiếng còi vọng khắp ngọn núi. Chúng tôi còn chẳng cần nghĩ đến nó là của ai.
Hai hồi ngắn. Một hồi dài.
Một hồi ngắn. Hai hồi dài.
“Nó tức là gì vậy?” Tôi hỏi sau một hồi.
Nito quay sang nhìn tôi với một nụ cười rạng ngời.
“Nó là một tín hiệu khác của tàu, nó chúc rằng đi tàu bình an. Ùm, tôi có thể hồi âm không?”
Dĩ nhiên là tôi gật đầu, và giao lại ghế tài cho cô ấy. Cô phóc lên và dựa thân hình bé nhỏ của mình vào ghế.
“Này là còi,” tôi bảo cô, chỉ tay vào một cái nút nhỏ ở tít bên phải đồng hồ đo. “Vặn sang bên phải để bóp nó.”
Nito gật đầu và ngập ngừng xoay nó, mặt cô hơi ửng đỏ và lo lắng. Nó cất lên một hồi còi.
“Wah!”
Âm lượng khiến cô nhảy dựng, giật tay lại và siết chặt trước ngực. Từ từ, cô duỗi tay ra lại và bóp còi lần nữa, lần này thì với các cử động kiên quyết hơn. Những hồi vang vọng vài lần khắp núi trước khi tan biến. Nito đưa tay ra khỏi nút, và cái còi lại một lần nữa rơi vào yên lặng.
“Và còn cái đó thì sao?” Tôi hỏi.
Cô ngưng một hồi trước khi trả lời.
“Nó tức là ‘cảm ơn, và thượng lộ bình an nhé.” Sau đó giọng cô lắng thành tiếng lẩm bẩm. “Tôi mong rằng họ có nghe thấy chúng ta.”
“Họ có mà, đừng lo,” tôi bảo cô; tôi chắc chắn rằng họ hiểu cảm giác của cô ấy.
Cơn gió thổi qua khu vực, khiến cây đu đưa. Ánh mặt trời chiếu qua những tán cây khắp núi, nhảy múa xung quanh chúng tôi như thể ngàn hạt chuỗi ánh sáng.
Chúng tôi gửi gắm những lời chúc dành cho một chuyến hành trình bình an thông qua tiếng còi khi chia tay, một sự kính trọng dành cho những người mà có thể sẽ chẳng bao giờ gặp lại khi quan sát họ rời đi và chuẩn bị tiếp tục chuyến hành trình của riêng mình. Ý nghĩ ấy kích thích tâm trí tôi. Có một câu châm ngôn mà tôi từng thấy đâu đó trong sách. Những từ ngữ ấy gắn liền với tôi, và tôi đã đọc đi đọc lại chúng. Ký ức đã tiêu tan, nhưng tôi cuối cùng cũng tìm ra cụm từ mà mình đang kiếm.
“Chia tay mới buồn làm sao.” [note41846]
Nito nhìn lại vào tôi.
“Đó là châm ngôn từ thế giới của tôi.”
Nito lặp lại những từ ấy cứ như là đang nếm vị trước khi cô hướng mắt vào lại ngọn đèo. Cô dường như đang tìm kiếm bóng lưng chiếc xe của đôi vợ chồng—nó không còn trong tầm mắt nữa.
“Câu châm ngôn ấy nghe buồn nhỉ,” cô nói.
“Nhưng chúng ta phải tiễn họ bằng một nụ cười, đúng không? Suy cho cùng, họ đang trong tuần trăng mật của mình.”
———————————
———————————
Không Có Dịch Vụ | 15:11 | 34%
<Ghi chú
SUY SỤP MANA
Đó là một sự việc mà tôi vẫn chẳng thể hiểu được. Một ngày nọ, mana tràn ngập thế giới này và bắt đầu biến mọi người và mọi vật thành pha lê. Nó là khởi đầu của kết thúc. Tôi tự hỏi cái gì đã gây nên nó. Toàn bộ sự việc chắc hẳn rất hỗn loạn.
———————————
Đã đến lúc để ngỏ lời tạm biệt, nhưng mình nghĩ tạm biệt thì thật đáng buồn, và mình thích nói xin chào hơn. Xin chào cho một chuyến phiêu lưu mới.
—Hẹn gặp lại nhé, Fantasy World. Chúng mình hi vọng rằng Ngày mai sẽ lại đến.