Chương 1: Ga Xe Lửa Lơ Lửng Trên Đường Chân Trời Xanh Thẳm
Độ dài 11,428 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-12-14 03:45:05
Trans+Edit: Thepa
~~~~~~~~~~
1
Bốn ngày đã trôi qua kể từ hồi tôi tìm thấy chiếc xe tải đó.
Tôi vẫn chưa bắt gặp thứ gì được gọi là một “công trình,” và có lẽ tôi sẽ rớt nước mắt nếu bản thân không tích trữ đồ từ chiếc xe tải kia. Sự lạc quan về tình hình của tôi đang dần thu nhỏ với tốc độ tương đương số thực phẩm và nhiên liệu còn sót lại.
Ngoài chuyện bị lạc, tôi cũng phải đối phó với việc Kettle bị bệnh. Bạn có thể bảo rằng nó bị hỏng, và việc không hiểu chuyện gì đang xảy ra với nó càng khiến tôi thêm lo lắng.
Sẽ không quá tệ nếu nó dừng chạy, nhưng với áp suất hiện giờ của hơi nước, tôi sợ rằng động cơ có thể sẽ phát nổ vào một lúc nào đó. Mỗi khi đặt tay lên vô lăng, tôi lại cảm thấy như đang toát mồ hôi hột vậy.
Đột nhiên, lốp sau trượt bánh và chiếc xe bắt đầu rung lắc. Tôi vội vã đẩy cần số và tăng tốc để ngăn chặn cảm giác rợn người này nhanh nhất có thể. Một lát sau.
“Mình sẽ sớm gặp rắc rối thôi.”
Tôi cần tìm một nơi để giải tỏa nỗi căng thẳng này càng sớm càng tốt. Căng tròn hai mắt về phía đường chân trời, tôi tưởng tượng rằng mình có nhìn thấy một thứ gì đó ở rìa của bình nguyên kia. Nhưng không, phong cảnh vẫn yên tĩnh hơn bao giờ hết. Sự căng thẳng từ phía sau lưng của tôi bắt đầu leo thang. Tôi quá là phát ngấy việc duy trì một sự tập trung cao độ trong khi phong cảnh lặng lẽ này cứ kéo dài đến vô tận.
Tôi tháo giày, bắt chéo chân, rồi rút chiếc điện thoại của mình ra. Tôi chạm vào màn hình và bật vài bài nhạc phương Tây quen thuộc lên. (Mình đã có thể tải thêm nhiều bài nhạc nếu mình biết chuyện này sẽ xảy ra), tôi suy nghĩ vẩn vơ.
Bản thân chỉ mới bắt đầu tập lái xe sau khi đến thế giới này, cho nên đối với tôi, lái xe là một hoạt động nhàn nhã. Bởi sau tất cả, điều duy nhất mà tôi cần làm chỉ là đặt tay lên vô lăng. Cảnh tượng đơn điệu, con đường phẳng, và những giai điệu tiếng Anh êm ru không mất quá lâu để khiến tôi rơi vào giấc ngủ.
Và cứ như thế, tôi không biết là mình đang mơ hay không khi thấy nó. Thị giác của tôi dao động như thể đang chứng kiến ảo ảnh trên sa mạc. Ở đỉnh điểm giữa cơn buồn ngủ và thức giấc, tôi chợt định thần lại và nhận ra đó là thật.
Tôi có thể thấy một ga xe lửa.
Có một công trình dài—một ga xe lửa—đang đứng trên một bể nước lớn. Mặt nước bao quanh lấy nhà ga, phản chiếu ánh xanh và trắng của bầu trời. Có hai đường ray kéo dài ra từ ga, một cái bên trái và cái còn lại thì bên phải. Cũng có một đầu tàu màu đen đang bất động với nửa thân của mình nhô ra từ nó.
Tôi liền vội vã nhặt tấm bản đồ từ ghế phụ lên rồi giương nó ra. Chỉ có một nhà ga nằm trong, vậy nên nó có lẽ là cái ở đằng kia.
Một gánh nặng bỗng trút khỏi vai tôi. Bạn có thể gọi nó là một sự khuây khoả. Đây là lần đầu tôi nhận ra chuyện bấy lâu nay nặng như thế nào khi không biết mình đang ở đâu.
Một ga xe lửa. Đó là nơi mà tôi đang đứng—một ga xe lửa đấy. Sự thật ấy thúc đẩy tinh thần của bản thân lên nhiều hơn tôi nghĩ.
Tình trạng ngủ gà ngủ gật của tôi tan biến trong tức khắc, tôi đẩy cần số. Kettle không nói gì cả, nhưng tôi có thể cảm thấy được tốc độ của nó khi tôi cố thuyết phục nó đi đến ga xe lửa.
Cuối cùng thì tôi cũng chạm vào mặt nước. Hình như một ổ gà trên mặt đất đã tạo thành một vũng nước, và chỗ nước ấy làm ngập gần một phần ba lốp xe. Chiếc vô lăng ngay lập tức trở nên nặng trĩu hơn.
Các gợn sóng nổi trên mặt nước khi Kettle di chuyển. Hình ảnh phản chiếu của bầu trời trở nên méo mó khi tôi đi ngang qua mặt nước và dần tiến tới nhà ga. Tôi đỗ xe kế bên cổng rồi quan sát cận cảnh công trình.
Nhà ga có một mặt tiền màu trắng, nhưng nó đã bị phai màu nặng nề bởi gió và mưa. Tuy thế, công trình vẫn hoàn toàn trông bình thường nếu bạn phớt lờ ngoại hình tồi tàn của nó. Nó tựa như một dòng người có thể đổ ra vào bất kỳ khoảnh khắc nào vậy. Nhà ga ấy đang đứng trên một thềm đất nông, nên đó hẳn là cách mà nội thất bên trong vẫn còn khô ráo, và dường như cũng có một bộ cầu thang vươn lên từ mặt nước rồi dẫn đến cổng vào.
Tôi tắt van nhiên liệu và đẩy cửa xe, chỉ để ngắm nhìn bầu trời đang trải dài dưới chân mình. Tôi tháo vớ và nhét chúng vào giày trước khi xoắn cổ quần lên. Lúc đặt chân mình xuống mặt nước, tôi bỗng cảm thấy một cái lạnh dễ chịu.
Sau khi mở cốp xe, tôi khoác lên lưng một chiếc ba lô. Với đôi giày trong tay, tôi băng qua mặt nước để đi đến cầu thang. Tôi nhấc chân lên một bậc, rồi một bậc nữa, trước khi ngồi bệt ở bậc cao nhất và lấy khăn từ ba lô ra để lau khô bàn chân. Tôi thay vớ và giày vào, đứng dậy, rồi ngước mặt tới cánh cổng một lần nữa.
Những cái bóng màu xanh lấp đầy nội thất bên trong. Tia nắng thì đang hắt qua những ô cửa sổ bên tường và xen lẫn mấy cái bóng ấy với các đốm sáng. Ở đây có những chiếc ghế dài, và một quầy thu ngân kèm theo thứ trông giống như cửa bán vé, nhưng vẫn không một bóng người. Chỉ có các tấm áp phích màu mè, ghi chú, và lịch trình trên tường để cho tôi biết nơi này từng nhộn nhịp đến mức nào.
Bầu không khí lạnh lẽo trong mấy vùng tối ấy làm tôi dựng tóc gáy. Tuy thế, mỗi lần bước qua nơi có tia nắng, nó sưởi ấm và khiến tôi nheo mắt lại trong sự vui thích.
Cơ sở vật chất trông không lớn lắm. Tôi băng qua cửa bán vé và đi ra ngoài hành lang, rồi luồn người qua thứ được gọi là cửa soát vé để đến khu vực có một cột đèn đang lấp ló ánh vàng. Đây hẳn là bến ga tàu. Tôi có thể thấy những thanh kim loại màu cam đang chống đỡ mái vòm, xen kẽ với những chiếc ghế màu xám đậm được xếp thành hàng; một mảng xanh sống động của đồng bằng ở phía bên kia bến, và những đồi cát trắng như thể đang nuốt chửng màu xanh ấy. Một đầu tàu hiện ra lờ mờ trước tôi. Và…
Những sợi chỉ bạch kim lấp lánh đang đu đưa trong làn gió.
Tôi sững người.
Mái vòm thủng lỗ chỗ, để những mảng nắng của cuối xuân lưa thưa trên thềm sân ga. Có một cô gái đang đứng dưới một trong số chúng. Từng cử chỉ uyển chuyển mà cô ta làm khiến cho những tia nắng tỏa ra từ mái tóc màu bạch kim của mình. Cô bận một chiếc váy màu xanh—nhạt hơn màu của bầu trời—nó làm nổi bật đôi vai và đôi chân tái nhợt của cô.
Cô ấy đang hướng ánh nhìn về con tàu, và trước mặt mình là một giá đỡ ba chân đang nâng một cuốn sổ phác thảo theo chiều ngang. Cô ta đang vẽ—cây cọ trong tay cô không ngừng di chuyển trên tờ giấy. Cảnh tượng này làm tôi say đắm đến mức bản thân cần một khoảng thời gian để xử lý. Những mảng sáng dịu dàng làm cô nổi trội trong bóng tối quanh mình. Cảm giác như đang chiêm ngưỡng một bức tranh thôn dã vậy.
Đột nhiên, cô gái ấy ngẩng đầu.
Tôi nghĩ cô ấy có thể chỉ đang kiểm tra cảnh vật trước mặt, và rồi cô bất chợt đưa mắt về tôi. Tôi thấy hai mắt của cô đang căng tròn ra. Chúng có màu xanh thẳm hơn màu của bầu trời đang phản chiếu trên mặt nước ngoài kia. Tôi đoán bạn có thể gọi chúng là màu xanh da trời.
Thời gian như đang ngừng trôi khi chúng tôi đứng nhìn nhau. Cả hai không biết nói gì. Suy cho cùng, thế giới này hầu như không một cư dân nào, nên bạn sẽ không lường trước được việc bắt gặp một người khác.
Chà, tôi đã để ý cô ta đầu tiên, nên tôi quyết định rằng mình cũng phải lên tiếng trước.
“Chào đằng ấy.”
Tôi chưa chào hỏi một người nào trong một khoảng thời gian dài. Nó cảm giác như tôi đang sử dụng một phần khác của thanh quản so với khi độc thoại. Tôi nghe có vẻ lóng ngóng và khàn khàn. Tôi hắng giọng để thử lặp lại một lần nữa.
“Xin...chào,” cô ấy đáp lại sau một hồi đứng hình.
Một hơi thở yếu ớt bỗng trút ra từ miệng cô, và nó cũng nghe khàn khàn giống như tôi. Cô che miệng mình lại và cất lên một âm thanh meo không rõ ràng, nó làm tôi gợi đến một con mèo.
Cả hai cách quá xa nhau để nói chuyện đàng hoàng, thế nên tôi di chuyển về phía cô ấy. Bầu không khí trở nên ấm áp và dễ chịu khi tôi bước ra ngoài trời. Do bị ngăn cản bởi ánh nhìn nghi hoặc từ cô, nên tôi dừng trước cô cách khoảng ba mét.
“Tôi không phải là một thằng lập dị. Ờ, tôi đoán mình chỉ càng trông giống vậy nếu giới thiệu bản thân như thế,” tôi bắt đầu thốt lên những lời mà mình chưa bao giờ nghĩ đến. “Tôi đã lái xe trong một khoảng thời gian rất dài, và tình cờ thấy nhà ga, và quyết định tạm dừng, và rồi cô ở đây.”
Đống câu từ phát ra từ miệng của tôi nghe như các lời bào chữa vậy. Có vẻ như tôi đã quên bén cách để bắt đầu một cuộc hội thoại.
“Vậy...à,” cô đáp sau một lần nữa đứng hình.
(Mẹ nó, cô ta hẳn đang đề cao cảnh giác. Mình hiểu mà, nhưng mình không biết nên làm gì với nó nữa.)
Sau đó, tôi ngẫm nghĩ lại sự tình và nhận ra bản thân thực sự trông như một thằng “nghệ sĩ tán gái.” Ngoài ra, hiện trạng của thế giới này càng khiến tôi khó để chối rằng cô ta không nên đề phòng. Tôi đã hấp tấp tiến gần cô ấy do tôi từng không còn hy vọng để tiếp xúc với con người, lẽ ra tôi nên suy nghĩ trước về nó nhiều hơn.
Tôi gãi cằm mình và phân vân. Dĩ nhiên là không có thứ gì hữu ích xuất hiện trong đầu rồi. Tôi có thể hỏi rằng “cô đang vẽ à,” nhưng có vẻ như cô ấy không muốn nói chuyện.
“Um, thế thì, xin lỗi vì đã làm phiền,” Tôi chưng ra một nụ cười chẳng mấy tự nhiên trước khi ngoảnh đầu đi.
Có lẽ tôi không nên làm vậy, nhưng khách quan mà nói, tôi đã thất bại lần đầu “tán gái” của mình.
Một tiếng kêu yếu ớt bỗng cất lên từ sau lưng tôi, và rồi tôi bất ngờ nhảy dựng lên. Khi tôi quay mặt lại, cô gái ấy đang lấy tay mình che miệng, như thể nó cũng đang khiến cô ngạc nhiên. Hai mắt của chúng tôi chạm nhau, ánh mắt của cô trông có vẻ nao núng. Tôi cảm nhận được sự do dự từ cô và chờ đợi trong im lặng, song…
“Không, không có gì,” cô nhanh chóng đưa ra kết quả rồi quay người về lại giá vẽ của mình.
Tôi không đủ ngu si để không hiểu rằng cô ta đã kết thúc cuộc hội thoại của cả hai, vậy nên tôi trở về lại với bóng tối lạnh lẽo.
Không có thứ gì khác ở trong ga xe lửa này thực sự đáng để kể. Có một căn phòng nhỏ cho nhân viên đằng sau một trong những cửa bán vé, nhưng nó là một mớ hỗn độn. Tôi tự hỏi liệu có bao nhiêu người từng cố chấp điều hành ga xe lửa này ngay cả khi biết rằng ngày tàn của thế giới đang đến gần. Có thể thấy được tận thế cũng tức nhiều người sẽ muốn bắt một chuyến tàu đến một nơi khác, nhưng tôi không nghĩ rằng nó sẽ làm nhiều người muốn điều hành những chuyến tàu ấy.
Hoàng hôn lập lòe trên mặt nước ngay khi tôi trở lại cổng và đi ra ngoài.
(Đoán chừng cô ta sẽ ở trong đấy một lúc), tôi trầm ngâm nhìn về phía công trình.
Tôi quá là mệt mỏi với tất cả—việc cứ ru rú trên ghế, giữ chặt vô lăng và đi ngang qua dải bình nguyên nhẵn nhụi—thế nên tôi muốn cắm trại tại đây. Mà cô gái ấy đã ở đây đầu tiên, và cô ta đang đề phòng tôi, thế có lẽ tôi không nên.
(Ái chà), tôi quyết định. (Mình sẽ rời xa nhà ga này và cắm trại ngoài nơi ẩm ướt kia.)
Cả vớ lẫn giày của tôi đều cần được tháo lần nữa, và sau khi tôi làm xong, tôi xoắn cổ quần mình lên rồi bước xuống cầu thang bằng chân trần. Mặt nước lạnh bao lấy các ngón chân khi tôi dẫm lên nó. Vào lúc tôi với tới Kettle, tôi mở cánh cửa tài xế rồi quăng giày và ba lô của mình vô trong. Sau đó, tôi lau khô chân trước khi ngồi vào ghế. Tôi chạm vào cần số và chợt nhận ra...
“Hử…”
Kim đồng hồ chỉ áp suất của lò hơi đã giảm hẳn. Trước khi vào trong, tôi đã để lò hơi ấm. Mỗi lần tôi định đỗ xe để cắm trại qua đêm, tôi luôn làm vậy để mình có thể ngay lập tức khởi động lại nó.
(Thật là kỳ lạ), tôi nghĩ, một cơn ớn lạnh bỗng chạy dọc sống lưng tôi.
Tôi liếc qua cái đồng hồ khác bên cạnh. Kim đồng hồ đo áp suất nhiên liệu chỉ nó đã sẵn sàng để nổ máy. Tôi vặn lại van nhiên liệu một lần nữa. Thao tác này sẽ mở đường ống giữa bình xăng và lò hơi để biến nước thành hơi. Dẫu tôi đã đợi một hồi, nhưng vẫn không thể nghe thấy tiếng sôi của nước. Kim đo áp suất có rung lên được một lúc, song không còn gì thêm nữa.
Tôi xoay ngược van lại rồi tắt công tắc đánh lửa. Rồi tôi gục đầu xuống vô lăng. Máu chảy ra từ mặt trong khi tôi siết chặt hai bên thái dương của mình. Tôi chỉ nằm đó, đầu tôi quay cuồng.
(Mình đã đoán trước được điều này), tôi nói với chính mình. Chiếc xe đã có dấu hiệu hỏng hóc. Ngược lại thì, tôi rất mừng vì mình đã đi xa được chừng này ngay cả khi ít bảo dưỡng nó đến thế.
Tôi bặm môi và mở cửa. Lần này thì chỉ nhảy sầm xuống nước. Cổ quần của tôi bị ướt sũng, nhưng tôi chẳng mấy bận tâm.
Tôi đi vòng ra trước, mở capô, và nhìn chằm chằm vào trái tim của Kettle. Những pít-tông hơi nước hay làm bánh xe chạy đang trú ngụ trong đó, cùng với lò hơi hay tự mình tạo ra hơi nước. Tôi kiểm tra mọi thứ từ trước ra sau. Sau đó tôi lặp lại thêm ba lần. Song không hề có gì để xem qua—không hề có một vết nứt nào trên đường ống hoặc vết dầu rò rỉ.
Tôi bỏ cuộc, đóng capô và trở về ghế tài xế.
Tôi kiểm tra lại các thủ tục để nổ máy một lần nữa: Công tắc đánh lửa, đặt đá mana vào trong bình nhiên liệu, và làm cho áp suất nhiên liệu đi lên. Cũng không có vấn đề gì với van nước của lò hơi. Tôi cầu nguyện từ tận đáy lòng và từ từ mở van nhiên liệu ra.
Tôi đếm thời gian trên đồng hồ của mình. Kim đồng hồ quay vòng. Một, hai, ba…
Đồng hồ đo áp suất trên lò hơi vẫn dừng ở đó, hoàn toàn bất động. Tôi vặn van lại và tắt công tắc đánh lửa.
Đó là tất cả cho ngày hôm nay; câu hỏi được đặt ra là liệu sẽ có một ngày mai không. Có một ga xe lửa bị bỏ hoang ngay trước tôi và một vũng nước quanh tôi. Ngoài chúng ra, thì không một gì hết.
2
Một trong những vật dụng mà tôi sở hữu là một cái bếp lửa hình trụ, nó đủ nhỏ để tôi có thể xách bằng một tay. Quá trình sử dụng lâu dài đã làm mờ đi màu sắc nguyên bản của chính nó—có lẽ là màu vàng—và phần kim loại quanh đầu đốt hình miệng ly giữa thân cũng đã bị cháy sém thành một màu xanh đen. Nó đã như thế kể từ lúc tôi vác về, và thậm chí đến bản thân còn không thể đoán nó được qua sử dụng trong bao lâu rồi. Cái tên “bếp cắm trại Svea” mà người ta hay gọi rất chi là dễ hiểu, tức nó rất vững chắc. Họ luôn quen miệng bảo rằng bếp Svea vẫn sẽ ở đó đây ngay cả khi mọi người đã rời xa.
Nó có một chìa khóa nhỏ được móc lủng lẳng với dây xích. Tôi tra cái chìa ấy vào trong ống dẫn bình ga của bếp để mở khoá cũng như bật đầu đốt lên. Kế tiếp, tôi đưa một que diêm vào đầu đốt. Phù. Một ngọn lửa bắt đầu bập bềnh trên bề mặt. Nó triều xuống rồi lên cùng với một tiếng ồn phù phù. Ngọn lửa trông tròng trành cho đến khi nhiệt với tới đá mana trong bình ga.
Tôi dòm vào hộp que của mình và thử lắc nó. Phần đáy của hộp đã cho tôi biết được số lượng của que diêm, tôi đã sử dụng kha khá chúng. Rồi tôi cất nó vô thùng gỗ và quyết định sẽ tìm thêm ở một nơi nào đó.
Tôi ngồi xuống bậc thang của nhà ga, bắt chéo chân và bâng quơ ngước nhìn bầu trời. Bờ của những gợn mây trôi lềnh bềnh trên trời đang rực một màu đỏ, và dải nước bên dưới cũng đang phản chiếu màu sắc bóng bẩy đó.
Svea thì đã lấy lại bình tĩnh và ngọn lửa cũng đã cân bằng được. Tôi lục lọi chiếc ba lô vừa mang từ trong xe và lôi ra một ấm đun nước cỡ bé. Sau đó, tôi múc lên chút nước từ dưới chân cầu thang.
Tôi giăng khăn mùi soa lên nền, rồi nắm một tách cà phê hạt rang từ trong túi da và đặt nó ngay chính giữa. Tiếp đến, tôi bọc khăn quanh nó và dùng phần đầu của một chiếc rìu đá nhỏ để nghiền. Tôi liên tục đập nó, và chỉ mở tấm khăn ra khi đã trở thành vụn. Mấy hạt ấy không nhẵn cũng không thô, nhưng đó là cách tốt nhất mà tôi có thể làm trong hoàn cảnh này.
Tôi đổ đống hạt vụn ấy vào trong ấm đun nước, đóng nắp, rồi đặt nó lên bề mặt của Svea. Tôi chỉnh lửa xuống, và cứ thế những gì còn lại là chờ đợi.
Khi hơi nước bắt đầu bốc lên từ ấm, tôi kéo một cốc thép và một hũ đường từ ba lô ra. Tôi đeo găng tay da lên để cầm ấm và từ từ rót nước vào trong cốc, phải bảo đảm không được run tay. Chất lỏng màu nâu dần ùa ra và hương thơm thì tuyệt diệu.
Người ta gọi thứ nước này là “ngay tại vườn”—một phương pháp cũ được truyền lại từ các cao bồi và người da đỏ của Mỹ. Nói cách khác, bạn có thể gọi nó là phương pháp truyền thống nhất. Tôi thổi cái cốc để làm tan đi hơi và nguội nước, sau đó nhấp một ngụm.
“Ọe…”
Hẳn nhiên là truyền thống luôn không có nghĩa là ngon. Nước có vị siêu đắng. Hạt được giã thô và thời gian ngâm lâu có nghĩa là tất cả vị đắng và nhiều mùi tởm lợm khác cũng dồn thẳng vào trong nước uống. Đã được một khoảng thời gian kể từ hồi tôi tìm thấy chỗ hạt đó, và chúng chỉ đang dần trở nên tệ và thậm tệ hơn. Nó nghe giống bùn chứa cafein hơn là cà phê chính hiệu vậy.
Tôi đã phải đổ một đống đường vào nước để chỉ khiến nó có thể uống được.
Cái cốc nằm trên tay trong khi tôi thẫn thờ ngắm nhìn cảnh vật, và thỉnh thoảng hớp thứ bùn đắng. Màu xanh ôliu của Kettle đang trang nghiêm giữa một vùng đồng bằng ngập nước. Gió thì thổi ngang qua mặt nước, phái những gợn sóng lăn tăn băng trên nó, và cuộn người lại quanh lốp xe của Kettle trước khi đi tiếp ra xa. Chúng chồng lên ánh hoàng hôn lung linh, như thể cả thế giới im lìm này vừa trở về sự sống được một chút vậy.
Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng bước chân và xoay người sang hướng của nó. Một cô gái đang đứng trong màn đêm thẫm của nhà ga và ẵm một cái giá vẽ trước ngực mình. Cô ta đang nghiêng người về sau để giữ thăng bằng cho thứ đó.
“Chào buổi tối,” tôi chào hỏi và cố giấu đi cảm giác hơi ngượng nghịu của mình.
Cô gái ấy cau mày, và không thèm giấu đi sự ngờ vực của mình bằng cách không đáp lại. Tôi thử tiếp tục cuộc hội thoại.
“Tôi đã quyết định qua đêm tại đây. Muốn ít cà phê chứ? Dẫu nó hơi dở.”
Sau một hồi sững người, cô chất vấn, “Anh đang mời chào một thứ có vị dở tệ ư?”
“Sẽ ổn cả thôi khi cô đã làm quen được với nó.”
“Cảm ơn,” cô nói, kéo dài câu từ của mình ra, “Cảm ơn nhưng không.”
Cô gái ấy bước tới cầu thang ngay cạnh cổng—giữ khoảng cách xa nhất có thể với tôi—và đặt đồ của mình xuống đất. Cô sau đó cúi người và bắt đầu tháo đôi giày ống cao cổ.
Tóc của cô ta có một màu lạ thường. Ánh mặt trời trên mái tóc ngang trán của cô khiến màu bạch kim ấy rực đỏ và trông hơi trong suốt óng ánh. Phần còn lại của mái tóc thì hơi xám, có lẽ do cách mà ánh sáng phản chiếu.
Cô nghiêng người về trước, và mái tóc xõa xuống rồi chắn ngang mặt. Khi cô vuốt nó ngược lên lại tai, tôi có thể thấy cái tai đó có một điểm nhọn.
“Anh chưa từng nhìn thấy một Bán Elf à?” cô lạnh lùng hỏi.
“Xin lỗi, tôi chỉ đang suy nghĩ tại sao tóc của cô có một màu kỳ lạ. Tôi không biết gì về Bán Elf cả.”
Dù lý do là gì, việc nhìn chằm chằm một cô gái như thế vẫn bất lịch sự, đặc biệt khi bản thân không biết gì về cô ta. Tôi quay người lại và nhấm nháp ly cà phê như để che đậy sự rãnh rỗi của mình.
Một tiếng bắn tóe thu hút sự chú ý và tôi quan sát qua khóe mắt. Tôi có thể thấy cô gái ấy đang bỏ đi. Cô ta đã buộc đôi giày của mình vào giá vẽ, và chúng đang đu đưa cùng với mỗi bước chân từ cô. Đường viền váy của cô đang bay la đà trên mặt nước. Cô rẽ sang phía bên kia của công trình và rồi tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa. Tôi đoán đấy là nơi mà cô ta đã cho xe của mình hay phương tiện gì đó đỗ.
Đôi mắt của tôi theo dõi những gợn sóng mà cô để lại phía sau, và khi chúng biến mất, tôi lại cảm thấy nhói lên một nỗi cô đơn. Việc nhớ lại thói quen chuyện trò hằng ngày với ai đó càng khiến vai tôi nặng hơn bao giờ hết.
Tàn dư của cà phê trở nên đắng hơn khi nó đi xuống cổ họng tôi. Độ chát tăng dần khi nguội làm tôi mím chặt bờ môi.
Chà, đành vậy thôi. Trở nên thân mật với một ai đó trong cái thế giới như này quả thật không dễ dàng gì.
Tôi có thể cảm thấy sạn từ đống hạt cà phê. Bởi tôi không dùng máy pha, nên chúng bị đọng lại dưới đáy cốc. Tôi nốc cạn ngụm cuối cùng rồi múc nước lên để rửa sạch bên trong cốc.
3
Ăn là một trong những thú vui tuyệt vời của cuộc đời.
Tuy nhiên, nguyên liệu duy nhất mà tôi có lại là nước lã và đồ hộp, thành ra đã khá lâu rồi tôi chưa ăn thịt hay cá tươi. Tôi thường thấy cỏ mọc, nhưng bản thân không cả quyết cái nào ăn được. Về tổng thể, tôi có một chế độ ăn chẳng mấy cân đối.
Bóng tối đã bao trùm toàn khu vực. Đây không có đèn đường, nhưng có vầng trăng ở trên kia bầu trời rọi ánh sáng dịu xuống mọi vật. Đèn xách trong tay tôi thì đang mờ dần, nên tôi xoay cán của nó. Cú xoay sinh ra điện năng, cũng cho phép tôi có thể sạc điện thoại của mình được đôi chút.
Tôi xếp vỏ hộp thành hàng và xem xét mấy cái mác dưới ánh đèn. Tất nhiên rồi, tôi không thể đọc chữ viết của thế giới này, nên tôi không hiểu chúng nói gì; nhưng từ kinh nghiệm của việc mở một vài hộp và dòm vô, mà tôi biết được đại khái nội dung dựa vào kích cỡ lẫn thiết kế của hộp.
Hộp mà tôi sẽ chọn cho đêm nay chứa nước sốt màu đỏ thẫm và các cục thịt. Độ cay của nó chọc thủng lỗ mũi tôi, ấy thế mà lại có mùi ngòn ngọt. Tôi gắp một cục lên bằng đôi đũa rồi đưa nó vào trong miệng. Nó ngọt và chua, và cả…
“A, nóng!”
Nó đốt lưỡi của tôi. Vị cay có thể ngon, nhưng này thì quá đáng rồi. Cục thịt trông như gà ấy khá phổ biến ở đồ hộp nơi đây. Tuy vậy, đó là lần đầu tôi nếm thử thức sốt này; nó làm tôi liên tưởng đến tương ớt. Ít nhất thì nó cay, và nóng hơn những gì mà tôi có thể hưởng thức.
Khi bản thân cân nhắc cách để nấu nó, tôi nhóm Svea lên, khiến ánh đỏ lung linh thắp sáng bức tường của nhà ga. Tôi đặt một nồi nhỏ trên đỉnh đầu đốt và dốc hết thịt gà cay vào trong. Sau đó, tôi múc lên chút nước rồi dùng nó để nạo phần sốt còn lại từ trong hộp xuống nồi: một mũi tên trúng hai con nhạn.
Thêm hai hộp trông thân quen đi ra từ kho dự trữ của tôi. Một chứa đậu luộc, còn kia đại loại là bắp cải muối. Cả hai chúng đều đi vào hỗn hợp. Tôi dùng một cái thìa để trộn lẫn tất cả và đợi nó sôi. Ngay khi nó đủ nóng để hỗn hợp sủi bọt quanh mép nồi, tôi múc lên một thìa rồi nếm nó.
Tôi liền dừng lại trước khi bậc ra một câu đầy khó hiểu, “À, rồi.”
(Về những gì mà mình mong chờ). Đó là câu duy nhất mà tôi có. Nó chỉ có thể là một trong những mùi vị ấy.
Tôi lấy một chiếc hộp từ trong thùng và gỡ dây kim loại buộc chặt trên nó. Có các loại chai và hũ nằm trong. Đây là hộp đựng gia vị từ thế giới này của tôi.
Tôi lấy đường ra và thêm một ít vô nồi cùng với tí bột canh, hy vọng nó sẽ mang lại hương vị. Rồi tôi chăm chú bằng cả đôi mắt, bỏ chút thảo mộc cắt nhỏ và một nhúm muối vào. Đây không phải là một nhà hàng, và tôi là người duy nhất sẽ ăn nó. Tôi luôn nấu theo bản năng và té ra nó thường rất ngon. Hỗn hợp sôi lăn tăn, còn tôi phải bảo đảm nó không cháy khét.
Nó rốt cuộc quánh lại, và khi tôi múc vài cây cải lên bằng thìa, nó trở nên mềm đi. Tôi thổi và đút thìa vào. Nó nóng bức trên lưỡi. Tôi hít một hơi để làm nguội rồi mới có thể thực sự nếm nó.
Nó có vị ngọt lịm, còn vị chua thì đã dịu đi. Có lẽ do thứ bột mà tôi đã dùng, nên giờ hương vị đã trở nên đậm đà, giống như bạn đang thử nước Dashi vậy. Nó ít cay hơn nhiều và rất chi dịu dàng trên lưỡi. Miệng của tôi vẫn bị bỏng nhẹ sau khi nuốt, song là một cái nóng dễ chịu.
“Mình chỉ có thể là một thiên tài nấu ăn.” tôi thốt với một biểu hiện nghiêm túc.
Hiển nhiên là tôi chỉ nói chuyện với bản thân, và không một ai trong thế giới này phản bác nó. Giấc mơ bộ đôi hài kịch của tôi chết đến nơi rồi.
Tôi dập tắt lò và đem ra một cái lon hình trụ. Phần trong là một ổ bánh mì tai họa, khó ăn, và vô vị mà sẽ kẹt trong miệng tôi rồi hút hết nước bọt bên trong. Đây là thành phần chính của chế độ ăn của tôi.
Chính lúc tôi nghe một tiếng bắn tóe từ ngoài tầm nhìn của mình, tôi cứng người lại. Người ta thường trở nên căng thẳng hơn vào ban đêm; tôi có thể cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi càng đề cao cảnh giác. Tôi siết chặt tay vào lon rồi nhìn ra ngoài bóng tối kia. Có một cái bóng di chuyển dưới ánh trăng mờ nhạt.
Một tiếng thở phào nhẹ nhõm đi xuyên qua bờ môi vào lúc tôi nhận ra hình bóng trong ánh đèn là cô gái họa sĩ. Đôi giày ống trên các ngón tay của cô đu đưa khi cô bước lên bậc thang, cùng với một biểu cảm cực kỳ nghiêm nghị trên khuôn mặt của mình.
“Xin thứ lỗi,” cô gay gắt lên tiếng. “Thứ mùi đó đang làm phiền tôi.”
“M-Mùi đó? Xin lỗi, nó hôi à?”
Cô lắc đầu và giận dữ cau mày. Một khoảnh khắc trôi qua trước khi cô nói.
“Thứ mùi thơm tho đang làm phiền tôi. Tôi không thể yên vị được.”
Tôi tin rằng mình đang ngây người ra.
Rồi tôi bật cười. Tôi cố bóp chặt lon bánh mì để nhịn, nhưng nó không thành cho lắm. (Mình tự hỏi đã bao lâu rồi kể từ hồi mình cười như này). Tôi lau nước trên hai mắt và thấy cô ta vẫn đang hậm hực nhìn mình, biểu cảm của cô gần như trẻ con lúc hờn dỗi.
Khi tôi vẫy tay ra hiệu qua đây, cô thận trọng bước ra từ trong bóng tối như một con mèo hoang. Thậm chí sau đó, cô dừng lại ở chỗ mà mình vẫn đang ngoài tầm với của tôi, ở tư thế mà mình có thể chạy ngay lập tức.
“Cô đã ăn chưa?” Tôi hỏi.
Cô lấy ra một cái lon từ trong túi áo khoác mà mình quàng trên chiếc váy, rồi đưa cho tôi xem.
“Vậy thôi ư?”
“Thức ăn là… quý giá,” cô đáp sau một hồi ngập ngừng.
Tôi đồng tình gật đầu. Điều đó thậm chí còn đúng hơn tại nhà ga trên mặt nước này.
Ánh đèn khiến tóc của cô ta trông xám tro, theo một cách khác so với ánh hoàng hôn đã làm. Cách mà tóc của cô đổi màu với ánh sáng thu hút sự chú ý từ tôi.
“Muốn ăn cùng nhau chứ? Tôi khá là phát ngấy việc phải ăn một mình.”
Thoạt đầu, cô không nói gì cả.
Tiếp theo là lắc đầu mình, cô trả lời, “Không.”
Cô ấy kiên định nhìn chòng chọc vào cái nồi ngay cả khi mình đã lên tiếng từ chối. Rồi bụng réo lên, và cô tức khắc khom lưng lại để cầm nó.
“Anh không nghe thấy nó,” cô bảo tôi.
“Không hề, đã nghe rất to và rõ.”
“Nó là một con chim,” cô khăng khăng sau một hồi sưng sỉa.
“Ồ phải, được thôi,” tôi tán thành với cô.
Cô ta chỉ cứ trừng trừng nhìn tôi.
“Thế chúng ta trao đổi thì sao?” Tôi đề nghị. “Cô đưa tôi cái lon đó, và tôi sẽ chia sẻ món hầm gà rau cay này. Thấy thế nào?”
“Ưưư,” cô rên rỉ.
Cô ấy tìm kiếm vạn vật như thể mình đang đối mặt với một bài toán khó. Tuy vậy, ánh nhìn của cô lại không cho tôi, mà là cho nồi hầm. Tôi cường điệu khuấy mặt bên trong và nghe tiếng khụt khịt từ cô. Sau đó, cô ấy làm thinh được một lúc.
“Tôi đồng ý với các điều kiện của anh,” cô dứt khoát tuyên bố.
Nó hẳn là một quyết định khó khăn. Tôi lại cười lần nữa.
“Thế thì sang đây.”
Tôi bươi cái hộp lên để tìm một bát và thìa kim loại. Tôi thường chỉ ăn thẳng từ bất cứ thứ gì mà mình nấu được, nên đã lâu rồi kể từ lần cuối tôi dùng bộ bát đĩa, cũng như ăn cùng với ai đó.
Tôi dọn món hầm còn cô ta thì tiến đến, vẫn đang thận trọng di chuyển. Cô ấy có thể sẽ nhảy dựng và phóng đi nếu tôi làm cô giật mình.
“Tôi là Keisuke. Còn cô?” Tôi hỏi, đưa bát và thìa cho cô.
Cô ấy nhìn vào đồ ăn được giơ ra trước khi liếc sang khuôn mặt của tôi.
“Nito,” cô cuối cùng cũng trả lời, đặt cái lon xuống mặt đất rồi đẩy nó qua tôi trước khi bưng cái bát.
Thành thật thì sự bướng bỉnh không xiêu lòng của cô ấy rất dễ thương. Cô nhìn chằm chằm vào trong bát, còn tôi nhìn chằm chằm vào cô. Lúc cô bất ngờ quay lên và mắt của hai người chạm nhau, tôi lại quay mặt xuống nồi.
Tôi lấy ổ bánh mì từ trong lon và cắt lát nó. Nó giống như hình trụ của cái lon, làm tròn những miếng lát. Tôi đem nồi ra khỏi đầu đốt trước khi sử dụng ngọn lửa để nướng bánh mì.
Một âm thanh nhỏ nhẹ có phần ngạc nhiên phá vỡ sự yên tĩnh. Khi tôi tìm ra nó, Nito đang đưa bàn tay cầm chặt thìa lên miệng, như thể cô đang kinh ngạc với chính mình.
“Cô có thích nó không?” Tôi lo lắng hỏi.
Dù gì, tôi đã nêm nó theo khẩu vị của mình.
Thế nhưng, cô lắc đầu, còn biểu cảm thì trở nên lúng túng, tựa như cô đang thấy xấu hổ trước phản ứng của mình.
“Tôi chỉ đang kinh ngạc… Nó ngon.”
“Thế thì tốt rồi.”
“Anh là một đầu bếp à?” cô chất vấn.
“Khó nói. Nó chỉ là sở thích của tôi.”
Tôi vươn tay ra và để một mẩu bánh mì màu nâu vào bát của cô.
“Á,” cô càu nhàu.
“Còn ngon hơn nếu cô bỏ nó vào. Nào nào, nó có thể.”
Cô ta lưỡng lự.
“Bánh mì không nằm trong giao dịch.”
“Nó phải luôn được ăn cùng bánh mì.”
“Nghe đúng hơn là anh đang bào chữa cho lòng thảo của mình vậy…”
“Đó là lỗi của cô vì không xác nhận chi tiết trước khi chấp thuận. Ăn bánh mì đi.” Tôi bảo cô ấy, rồi ngoảnh lại để nướng bánh mì của mình.
Tôi tiếp tục tỏ ra lãnh đạm, ngay cả khi cô ấy bĩu môi với mình. Một lát sau, tôi nghe thấy tiếng răng rắc của bánh mì, cùng với một tiếng lẩm bẩm ngạc nhiên, và phải cố nhịn nụ cười của mình.
Có hai loại bữa ăn: bữa ăn mà bạn ăn một mình, và bữa ăn mà bạn chia sẻ. Chúng tôi không có một cuộc trò chuyện thân mật hay bất cứ việc nào khác, nhưng tôi vẫn có thể nghe ai đó ngoài chính mình thổi đồ ăn để làm nguội nó, ai đó ngoài chính mình đang gặm bánh mì, và tiếng ồn của ai đó ngoài tiếng dao kéo của chính mình. Có một ai đó ngoài mình đang ở trong cái thế giới hiu quạnh này.
Tôi rút hết phần sốt còn lại trong nồi bằng mẩu bánh mì rồi đưa nó vô miệng. Giờ đây nó mềm đi rất nhiều và tan rã trên lưỡi tôi. Chính bản thân bánh mì hầu như vô vị, nhưng khi bạn ăn như này, nó tạo nên một dư vị dễ chịu và mặn ngọt.
Nito đã ăn xong, và bộ bát đĩa trông gần như chưa bao giờ được sử dụng. Tuy vậy, cái nhìn thèm thuồng trên khuôn mặt của cô có lẽ chỉ là sự tự phụ của riêng tôi.
“Nó không đủ à?”
“Nó đủ,” cô bất đắc dĩ trả lời. “Nó rất ngon. Cảm ơn.”
Tôi lấy lại bát và thìa mà cô ấy giơ ra, rồi đặt chúng lên nắp nồi.
Những giọt nước nhỏ bắt đầu rơi từ bên trên. Tôi không thể nghe thấy tiếng lõm bõm, nhưng có vẻ chúng đang dần tạo ra tiếng ồn đó khi đáp xuống bề mặt của vũng nước. Chúng bắt đầu rơi nhanh hơn nữa; những gợn sóng liên tục lan rộng khắp bề mặt, bóp méo ánh phản chiếu của mặt trăng.
“Chúng ta nên đi vô trong trước khi nó trở nên quá nặng.”
Chúng tôi đang ở trước bậc thang, và dù có mái che, thì cả hai vẫn sẽ bị ướt nếu cơn mưa rơi theo chiều khác. Tôi khoác ba lô, nhấc chiếc hộp, rồi đi vào bên trong. Ánh trăng không với xa tới vậy, và bóng tối duỗi tay ra trước mặt tôi, khiến tôi do dự chỗ để ngủ.
Sau đó, ánh sáng bất thình lình tràn ngập căn phòng. Nito bước vào với đèn xách trong tay.
“Cảm ơn, nó giúp nhiều lắm.”
“Không có gì đâu.”
Chúng tôi đứng kề sát nhau, nhìn về bầu trời khi cơn mưa trở nên nặng hơn. Mặt trăng vẫn hữu hình, nên tôi nghĩ nó sẽ nhanh tạnh thôi, nhưng nó cũng có thể sẽ tiến triển cho đến sáng. Dù bằng cách nào, Nito không thể rời cho đến khi cơn mưa ngừng rơi.
“Cô có xe không?” Tôi hỏi cô ấy.
“Không, có một chiếc xe ba gác tự động à.”
“Một chiếc xe ba gác tự động?”
Biểu cảm của cô thể hiện rõ ràng một sự hoài nghi rằng tôi không biết nó là gì. Lúc đầu, cô chẳng nói gì, nhưng rồi cô cuối cùng cũng giải thích.
“Nó nhỏ, là một phương tiện ba bánh với một khoảng trống cho hành lý. Nó không khó để lái như xe hơi nước. Tuy một trong hai là thế, tôi vẫn không có bằng lái.”
“À, thế cô cần phải được cấp bằng?”
Biểu hiện của cô ấy trở nên phức tạp khi nhìn từ tôi sang Kettle, một câu hỏi rành rành hiện lên trong mắt cô: Anh có lái nó hay không?
“Tôi đã học cách để lái nó, mà tôi không có bằng. Tôi không đến từ thế giới này.”
“Ồ, anh là một người từ dị giới hả?” Nito hỏi với đôi mắt căng tròn, chờ đợi trong vẻ ngạc nhiên. “Vậy họ thực sự tồn tại. Tôi tưởng họ chỉ ở trong sách chứ.”
“Họ có, thật mà. Rất vui được gặp cô.”
Ánh mắt của Nito lảng vảng.
“Hẳn rất khó khăn trong hoàn cảnh này. Nếu anh đến đây sớm hơn, quốc gia sẽ trả tiền cho anh.”
“Đó là lần đầu tiên tôi nghe ấy.”
“Nền văn minh ở đây phát triển nhờ vào những gì mà bọn tôi tìm được trong mê cung, và những người từ dị giới được triệu hồi đến đó. Mỗi quốc gia đều rất muốn giành lấy ân huệ với họ.”
“Tôi đoán mình đã đến sai thời điểm,” tôi nói sau một hồi. “Không hẳn là bản thân muốn đến chút nào.”
Tôi đặt tay lên đầu, chả nghĩ ra thứ gì mà sẽ giúp ích được, nhưng tôi thà bị đút lót với tư cách khách của nhà nước còn hơn là cuộc sống vô gia cư hiện tại.
“Chà, dù thế nào, tôi không thể làm gì được với nó. Cô biết cách để tôi có thể trở về nhà không?”
Cô ngắt giọng và suy xét.
“Từng cho rằng những người từ dị giới sẽ được đưa về khi mê cung mà đã triệu hồi họ trải qua một sự thay đổi mana thất thường, nhưng thế giới giờ đã đắm chìm trong mana, nên chuyện đó không xảy ra nữa. Tôi cũng nghe rằng tài nguyên của mọi mê cung đều đã cạn kiệt và chúng đều bị phong ấn. Thứ tôi muốn biết là, anh đến đây bằng cách nào?”
Tất cả những gì mà tôi có là một ký ức mơ hồ về một tàn tích bằng đá. Tôi đang trên đường đến một chuyến cắm trại cho vài ngày, rồi nó như thể bản thân lọt qua một lỗ cống, và khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang ở trong tàn tích đó.
“Tôi không nhớ gì hết. Tôi biết có ai đó dường như hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi không biết họ đã đi đâu.”
“Vậy… sao…” cô ta đáp, cái nhìn của cô để lộ ra một mối thương cảm lưng chừng.
Tôi xác định rằng cô ta là một cô gái tốt.
“Cô cũng đi lang thang à?” Tôi hỏi cô ấy.
“Vâng,” cô ngập ngừng trả lời. “Đây là chuyến hành trình đầu tiên của tôi.”
Câu nói ấy chứa đầy ẩn ý phải không! Tôi trầm ngâm suy nghĩ mình có nên đào sâu hơn hay không. Vẫn còn một vách sâu ngăn cách cả hai. Người ta cần thời gian để tìm hiểu nhau, và việc đột ngột thu hẹp khoảng cách chẳng ăn nhập gì cả.
“Rồi, đoán chừng cả hai ta đều gặp khó khăn,” tôi nói thay vì ấy.
“Đúng vậy.”
Cơn mưa rơi đều đều, bao phủ bề mặt của vũng nước với những gợn sóng vô tận. Các đám mây dày đặc bay tới và dần dần chặn đi ánh sáng của mặt trăng.
“Thật ra,” cô nói, “xe ba gác tự động của tôi đã bị hỏng. Nó không di chuyển được nữa.”
“Trùng hợp thay, xe của tôi cũng bị hỏng. Nó đã phải vật lộn suốt thời gian qua.”
“Hử?” cô la lên, xoay tít sang nhìn tôi.
Tôi liền nhìn lại cô ấy.
Một sự yên lặng khó xử lướt qua khi cả hai tiếp tục nhìn nhau.
“Tôi hiểu rồi,” cô ấy nói.
“Đây là một vấn đề. Chúng ta nên làm gì đây?”
“Anh thông thường phải dùng đến Máy Kéo Hơi, mà coi bộ…” Cô hạ giọng, dường như để ý sự bối rối của tôi về cái tên xa lạ, rồi cất lên một tiếng à nhỏ bé, và bắt đầu giải thích. “Chúng là một dịch vụ sửa chữa di động cho phương tiện chạy bằng hơi nước. Chúng chạy dọc theo các con đường, và sẽ sửa chữa những chiếc xe bị hỏng mà mình tìm được, hoặc sẽ dắt anh đến một phân xưởng.”
“Nghe tiện lợi đấy.”
(Chúng ta thực sự có phương cứu chữa.)
Với mặt trăng bao trùm, tôi không thể thấy dấu hiệu nào của sự sống trên núi hay đồng bằng. Tôi tự hỏi vào lúc những người từng sử dụng nhà ga này vẫn còn xung quanh, liệu bạn có nhìn thấy đèn pha của xe băng qua bình nguyên không, hay nghe thấy tiếng chim và côn trùng không. Nó cùng với thứ cảm giác mà bạn đứng trong một tòa lâu đài đổ nát vậy. Nó khó để tưởng tượng quá khứ từng như thế nào trong một thế giới mà bạn không quen. Bức xúc hơn cảm xúc của tôi là lo lắng phải làm gì vào ngày mai.
“Tôi phải đi ngay,” Nito bảo, nhẹ nhàng cúi chào. “Cảm ơn vì chỗ thức ăn.”
“Nhưng trời vẫn còn mưa. Sao cô không đợi lâu hơn chút?”
“Nó không xa đâu, và đã muộn rồi.”
Như một nàng công chúa sắp đến giờ giới nghiêm, cô cầm đôi giày lên và bước xuống cầu thang trong cơn mưa. Tôi theo dõi cô ấy đi cho đến khi tan biến vào bóng tối, và cuối cùng là tiếng bắn tóe của bước chân phai dần vào cơn mưa.
Tôi đứng đó một lúc, màn đêm giờ trông tối hơn chút khi ở một mình.
“A!” Tôi la lên, nhận thức chợt ập vào tôi như một tia chớp.
Lẽ nào cô ta đang kêu gọi sự giúp đỡ? Tôi chẳng phải là người duy nhất bị kẹt vì không có phương tiện.
“‘Trùng hợp thay,’ quả thật, Keisuke.”
Tôi đang ở trong tình huống tương tự, nên không thể giúp cô ta, nhưng tôi đã có thể tìm được cách tốt hơn để nói ra. Tôi nhìn về hướng Nito rời đi, song giờ đây tôi lại không thể đuổi theo cô.
Tôi cất một tiếng thở dài nặng nề và bước vô trong. Đã đến lúc để chìm vào giấc ngủ.
4
Ánh mặt trời trắng như giấy ùa đến để chào hỏi khi tôi bước ra từ trong lều. Tôi ngồi xuống bậc thang với đôi mắt lờ mờ và nhìn ra xa. Những đám mây lớn mà bạn hay thấy vào mùa hè đang cuồn cuộn lên từ ngọn núi, và vũng nước trong veo trước mắt làm tôi gợi đến biển cả.
Một vốc nước tát lên từ vũng để cho tôi rửa mặt. Làn nước lạnh buốt tạo cảm giác dễ chịu trên da, và ba phát như vậy khiến tôi hoàn toàn thức tỉnh. Tôi dùng cổ tay áo để lau mặt rồi mới ngả người về sau.
Bóng tối mờ nhạt dưới mái che bậc thang choán hết tầm nhìn của tôi. Cây ống gầy gầy trông giống đèn huỳnh quang treo lên nó. Lớp gạch tỳ vào lưng tôi thì rất âm ấm và thoải mái, làm nhụt đi sự tỉnh tảo của tôi. Khi chợp mắt và duỗi hai tay ở nơi mà mình nằm, tôi nghe thấy một tiếng bắn tóe. Cuối cùng thì trở thành một âm thanh lộp cộp khi nó dần gần hơn, rồi dừng kế bên tôi. Một làn gió nhẹ kéo theo mùi hương của đầu hè—
“Anh đang làm gì thế?” Một giọng điệu nghi vấn, hơi thé, và có phần trẻ con hỏi thăm.
“Tắm nắng,” tôi trả lời.
“Nó có phải là một phong tục từ thế giới của anh không?”
“Không, chỉ là sở thích của tôi.”
“Vậy sao,” giọng nói ấy đáp lại sau một hồi. “Trông có vẻ vui nhề.”
Tôi mở mắt và thấy Nito cúi sát xuống mình với hai tay quanh chân.
“Chào buổi sáng.”
“Rồi, chào buổi sáng.”
“Muốn bữa sáng chứ? Chờ tôi một tí.”
“Không,” cô nhấn mạnh với đôi má ửng đỏ. “Tôi không tham tàn đến mức lợi dụng anh như thế đâu.”
Quả thật là tham tàn! Đây là lần đầu tôi nghe một người xài từ ấy ở ngoài đời, bất chấp nó đúng như thế nào.
“Thế có chuyện gì sao?”
“Tôi nghĩ xe của anh có thể có một khẩu súng hiệu…”
“Ờ, ít nhất nó có một khẩu súng nhỏ trong hộp.”
“Chính nó đó. Xe ba gác tự động của tôi không hề có.”
“Và cô sẽ làm gì với khẩu súng.”
“Cầu cứu.”
“Kể cho tôi chi tiết đi,” tôi gặng hỏi và nhanh chóng nghiêng người về trước, khiến cô giật mình.
“Lúc xe của anh bị hỏng, hoặc cạn kiệt nhiên liệu hay nước, anh bắn một tín hiệu mà xả một chùm khói màu đỏ. Máy Kéo Hơi sẽ thấy và đến giúp.”
“Ồ, vậy đó là phong tục ở đây?”
“Thế nhưng, tôi chỉ mới đọc về nó trong sách…”
Tôi không chắc liệu có ai đó đủ lập dị để vác theo cái “Máy Kéo Hơi” này trong tình trạng gần như hoang vắng của thế giới, nhưng có vẻ nó đáng để thử hơn là việc chỉ phơi mình dưới nắng.
“Hãy thử thôi,” tôi nói và đứng dậy.
Nito cũng làm theo. Tôi xoắn cổ quần lên lần nữa, bước xuống cầu thang và ngâm chân vào mặt nước. Nito từ từ theo sau tôi. Cơn mưa nặng hạt đã làm mực nước dâng lên, và nó khó để đi hơn hôm qua, nhưng rồi chúng tôi cũng đến được chiếc xe.
Tôi lấy ra một chiếc hộp nhỏ từ bên ghế phụ, đặt nó trên capô rồi mở khóa. Có hai phần của khẩu súng lục, mỗi phần đều vừa khít với bề lõm được bọc vải đỏ. Nắp hộp có khoảng trống cho sáu viên đạn, nhưng chúng hiện chỉ còn hai viên với đầu đỏ.
“Phải nó không?” Tôi hỏi, quay sang Nito đang đứng cạnh mình.
“Phải. Những viên đạn có đầu đỏ là tín hiệu.”
Nó đã được nạp nhưng tôi chưa bao giờ bắn, thành thử không biết nó có viên tín hiệu. Tôi luôn tự hỏi rằng tại sao hai viên ấy lại màu đỏ.
Tôi lấy khẩu súng ra và cảm thấy nặng nề trên tay; dẫu nhỏ, nhưng toàn bộ đều là kim loại nặng. Khi cầm chặt vào băng đạn, tôi sờ thấy một đòn bẩy nhỏ ngay dưới ngón cái của mình. Tôi hạ nòng súng bằng tay kia trong khi đẩy đòn bẩy và giữ nó. Khẩu súng uốn cong như thể sắp gãy thành mảnh, rồi báng súng đã được nạp đạn thò ra.
Tôi lấy hai viên đạn ấy và đặt chúng trên nắp hộp, rồi thay thế bằng mấy viên đầu đỏ và đẩy báng súng lên. Tôi ấn chốt bằng ngón cái, nó đáp lại một tiếng cách dứt khoát. Giờ thì tất cả những gì mà tôi phải làm là siết cò.
Tôi nhìn thoáng qua Nito và thấy cô đang nhìn mình với biểu hiện có phần lo lắng. Thế mà coi bộ cô không định ngăn lại, nên tôi giơ tay lên. Tôi đặt ngón tay vào cò, rồi bịt một bên tai bằng đầu cánh tay, và dùng tay đang rỗi để làm tương tự với bên đối diện.
Ngay khi thấy Nito vội vã làm theo và che lấy tai, tôi uốn ngón tay chặt hơn. Dù đến đâu, cái cò chỉ đứng khựng nửa chừng xuyên suốt đường đi của mình. Tôi bị bối rối, gắng sức nữa, và nó bất ngờ nhẹ đi. Tích tắc sau đó là một âm thanh và độ rung của phát bắn chạy khắp cánh tay tôi.
Vẫn che tai mình, Nito nhìn lên với miệng khẽ mở. Một chùm khói vút lên trên đầu chúng tôi, đi thẳng vào không trung theo chiều dọc như một vệt ngưng tụ. (Nó thành công rồi), tôi nghĩ khi nhìn xuống khẩu súng trong tay.
“Chuyện gì vậy?” Nito hỏi.
“Lúc tôi định siết cò, nó chỉ dừng nửa chừng và trở nên rất nặng.”
“Đó là cơ cấu an toàn.”
“Cơ cấu an toàn?”
(Ồ, phải…) Tôi nghe cụm từ ấy rất nhiều trong phim ảnh. Thứ đó không phải đòn bẩy hay nút ư?
“Cái cò bị dừng nửa chừng là để ngăn ngừa việc bắn hụt. Nếu anh trút nhiều lực xuống nó hơn, thì khẩu súng mới bắn.”
“Vậy à. Chắc cô biết nhiều lắm.”
“Tôi đọc về nó.”
“Cô hẳn là nhà bác học.”
“Không, tôi chỉ biết về những thứ mà mình biết,” cô ấy nói, chẳng tỏ ra dấu hiệu nào của đùa bỡn, mặc cho việc đã diễn giải như một loại hình triết gia.
(Dù thế, tôi chưa bao giờ nhận ra nó có một chốt an toàn.)
Tôi nhìn xuống khẩu súng trong tay. Trọng lượng của nó hầu như chưa bao giờ thay đổi, bất kể tôi thường xuyên cầm nó ra sao. Biết được về chốt an toàn hóa ra có ích đến vậy.
“Có chuyện gì hả?” cô hỏi sau một hồi.
“Không, không có gì,” tôi trả lời cũng như đặt khẩu súng về lại trong hộp, đóng nắp và khóa nó. “Tôi chỉ hy vọng rằng ai đó sẽ đến.”
“Vậy. Nếu họ không, chúng ta sẽ gặp rắc rối.”
Cả hai người chúng tôi ngước lên bầu trời. Sợi dây đỏ đã cao hơn, mỏng dần về phía trên cùng. Cơn gió thì làm đục đường nét của nó. Vẫn còn ai ngoài kia thấy nó không?
Chúng tôi cứ thế được lúc trước khi một tiếng réo uể oải khiến cái nhìn của cả hai quay trở lại. Nito khom người xuống với tay quanh bụng mình.
“Mấy con chim sáng nay năng nổ thật ha?” Tôi đề nghị.
“Anh… tinh tường lắm.”
“Phải, đi ăn sáng nào. Cô ăn cùng tôi chứ? Dù chỉ là đồ hộp.”
Khi bắt đầu đi về phía nhà ga, tôi nghe thấy chuyển động của cô ta đằng sau mình.
“Tôi sẽ báo đáp anh sau…” cô lẩm bẩm.
Tôi bật cười.
5
Ngay khi ăn xong một bữa xuềnh xoàng được hâm bởi Svea, chúng tôi ngồi xuống bậc thang để đợi. Tôi dòm vào đồng hồ và kiểm tra thời gian đã trôi qua. Chùm khói đỏ đã phai đi từ lâu, và không có dấu hiệu nào của ai đó đến. Cả Nito và tôi đều không nói gì; đây là những gì mà cả hai đều mong chờ. Chúng tôi chưa từng nghĩ rằng một ai sẽ đến ngay từ ban đầu.
“Có lẽ chúng ta nên thử một phát nữa,” tôi bảo và đứng dậy, nhận lấy một vẻ cau mày từ Nito khi cô nhìn lên tôi.
“Ngay bây giờ? Tôi nghĩ đợi lâu hơn một chút sẽ tốt hơn.”
“Chờ đợi sẽ chẳng giúp ích gì. Nó không như chúng ta biết khi nào là thời điểm tốt nhất để bắn,” tôi trả lời và xoắn quần lên.
“Nh-Nhưng chúng ta chỉ còn một viên. Chúng ta nên cẩn thận mà hành động.”
“Và cẩn thận mà làm gì? Chờ?”
“Ưưư,” cô cằn nhằn, nhai môi. Cuối cùng là phồng má mình lên, cô nói, “Nếu anh muốn bắn nó đến vậy, làm đi. Tôi không quan tâm.”
“Nếu nghĩ theo lối này và bắn nó ngay bây giờ, chúng ta sẽ không cần bận tâm về thời điểm để bắn nữa. Nếu nó không thành công, chúng ta có thể tìm cách khác.”
“Anh lạc quan quá… Sọ của anh hẳn không có gì ngoài sự rỗng tuếch…”
“Còn cô thì khá thô lỗ đấy,” tôi nói, mong rằng cô ta sẽ sử dụng cái lôgic đó cho điều khác ngoài việc lăng mạ tôi.
Tôi bước xuống mặt nước mà giờ đã ấm hơn và hướng tới Kettle. Chiếc hộp vẫn ở trên capô. Tôi luôn có ý muốn bắn cả hai. Tôi không biết gì về Máy Kéo này hay Kéo Hơi nọ, nhưng tôi hiểu rằng không một ai sẽ xuất hiện. Dân số về tổng thể đã xuống dốc, còn hệ thống trật tự pháp luật cũng đã tan biến cùng với sự sụp đổ của các trường học và chỗ làm, nên không một ai vẫn sẽ hiến dâng chính mình cho một công việc như vậy.
Tôi mở khóa hộp, lấy ra khẩu súng, rồi cầm chặt nó, chỉa lên trời và siết cò. Trong lần siết thứ nhất, chốt an toàn dừng nửa chừng, nên tôi siết chặt ngón tay. Lần siết thứ hai phái một cơn giật khắp cánh tay tôi, với một tiếng đáp inh ỏi của hỏa lực vang bên tai.
Tôi ngước để quan sát chùm khói màu đỏ đang bay lên mà không hề hấn gì. Phát bắn thứ hai diễn ra trôi chảy hơn. Việc luyện tập từ lần thử đầu tiên chắc chắn rất hữu ích cho tôi.
Trước khi thu xếp mọi thứ và đặt chiếc hộp về bên ghế phụ, tôi đẩy đòn bẩy và tháo súng để xem băng đạn rỗng; lấy nó ra và nhét vào khuôn trên nắp hộp, rồi nạp nó với hai viên đạn mà đã ở ngoài ngay từ đầu.
Lúc tôi quay về bậc thang, Nito đang nép mình ôm đầu gối ở gần cổng, hai má vẫn phồng phồng.
“Vui lên nào.”
“Tôi không đang vui,” cô nói sau chốc lát. “Súng là của anh, và anh có thể bắn nó bất cứ lúc nào mình muốn.”
“Cô có thể không nhận ra, nên tôi sẽ cho cô biết, cách mà cô cư xử ngay bây giờ thực sự làm nó tựa như chính cô vậy.”
“Ồ? Tôi chưa từng nghe nó trước đây ấy. Tôi sẽ ghi nhớ điều đó.”
Giọng điệu châm chọc của cô ấy khiến tôi mỉm cười bất chấp bản thân mình.
“Sẽ ổn thôi, họ sẽ sớm đến đây thôi,” tôi bảo.
Đương nhiên, tôi không tin tưởng bản thân, nên nó mới rành rành lòi ra sự giả dối. (Chà, sao cũng được), tôi quyết định đi lấy vật dụng từ Kettle và lên kế hoạch nằm ườn trong khi suy nghĩ nên làm gì. Nhưng rồi…
“Đó là…”
Đầu của Nito ngẩng cao, còn đôi mắt thì căng tròn trước khi vội chạy lên cầu thang. Tôi còn chẳng cần phải hỏi tại sao: Tôi có thể nghe thấy tiếng ồn ồn của kim loại di chuyển cùng với mỗi bước chân từ cô. Đó là âm thanh của pít-tông được kéo bởi hơi nước, của một động cơ rất lớn. Khoảng cách khiến nó nhỏ đi phần nào, nhưng rõ ràng là nó đủ để chạm tới chúng tôi.
Nito sửng sốt quay cuồng, chỉ tay về phía đồng bằng cũng như hớn hở hét lên.
“Khói vàng! Đó là Máy Kéo Hơi!”
Quả thật có một đường sáng của khói đang bay lên trời. Sau đó, hầu như thể đang trồi lên từ các đụn cát, một chấm đen xuất hiện trên đường chân trời, không thể nhầm lẫn rằng nó đang đến. Phải mất một lúc não tôi mới bắt kịp.
“Thật à?” Tôi thốt.
Tôi không thể hiểu sao ai đó vẫn đi làm như thường dẫu cho tình trạng đổ nát của thế giới này, nhưng mắt của tôi đang nói lên điều ngược lại. Phương tiện ấy xả thêm một chùm khói vàng và tiếp tục tiếp cận chúng tôi.
6
Một người đàn ông râu ria với làn da ngăm mở capô của Kettle và nhìn thoáng qua. Ông mở cốp xe và nhìn thoáng qua. Rồi ông lên tiếng.
“Không thể sửa ở đây. Các mối lò hơi đã bị nấu chảy. Ai đó lái không vững và chạy nó quá nóng. Hơi nước rò rỉ từ đây cũng đã hủy hoại ba đường dẫn nhiên liệu.”
Tôi thở dài một hơi, rồi ông nói tiếp.
“Cũng có vấn đề với buồng đốt, uốn khuỷu quá ồn ào, và toàn bộ chuỗi cần phải được thay thế.”
Tôi thở dài một hơi nữa trước khi cái nhìn sắc lạnh từ ông khiến tôi dựng đứng. Không hẳn tôi không đang để ý.
“Đó là xe của mi đấy, lắng tai đi,” ông rầy la.
“V-Vâng.”
“Ta sẽ dắt nó về phân xưởng. Ta cần phải tháo dỡ nó.”
Ông ta chờ đợi, ánh mắt của ông như xuyên thấu tôi.
“Làm ơn hãy.”
Nó không như tôi có thể nói, “Thật ra không, cảm ơn.” Tôi cũng không muốn nói nó, nhưng ngay cả khi tôi có, thì cách mà ông ta nói chẳng thể phản bác được.
“Thế, còn nhóc kia thì sao?” Ông hỏi, lần này dán mắt vào Nito.
Ông có thể không bực hay nào khác, nhưng cái nhìn trong mắt của ông vẫn rất sắc lạnh. Nito giật mình trước khi rốt rít chạy ra sau tôi. (Đừng dùng tôi như một tấm khiên sống!)
Ông ấy trừng trừng nhìn tôi cho một lời giải thích để thay thế, nên tôi bất lực chỉ về phía nhà ga.
“Rồi,” ông đáp, sau đó cầm trong tay hộp dụng cụ của mình và chật vật lội qua mặt nước.
“Thôi nào, ông ta đi rồi,” tôi bảo Nito, người vẫn đang núp sau mình.
“Cảm ơn…” Cô miễn cưỡng trả lời và thì thầm.
“Cô sợ à?”
“Tôi không!”
Cô bỏ đi và theo sau người đàn ông. Cách mà cô ta quả quyết vực lên thật dễ thương. Tôi chậm rãi dõi sau hai họ.
Vừa đi tôi vừa nhìn về chiếc xe tải lớn bên cạnh Kettle qua khóe mắt. Hình như đây là Máy Kéo Hơi. Dù là gì, nó rất lớn. Chỉ riêng về chiều rộng, bạn có thể vừa khít ba Kettle ngang nó. Các đường ống uốn cong, lốp dự phòng, và những vật tương tự treo bên hông xe, thêm một bệ với cần trục vàng gỉ và một máy tời tạo nên đuôi xe. Nó giống như một phân xưởng di động hơn là một phương tiện cứu hộ vậy.
Vào lúc đi vòng qua góc nhà ga, tôi thấy một bộ cầu thang nhỏ và cánh cổng khác. Phương tiện của Nito, mà cô gọi là xe ba gác tự động cũng ở đó. Nó là một xe ba gác tầm thường—ba bánh và mọi thứ—và hình dạng thì hơi tròn. Nó có một ghế trước và một ghế sau, với khoảng trống cho hành lý ở phía cùng. Lúc này, có một ô văng đang căng rộng trên nó. Lốp xe cũng nhỏ, và thiết kế đơn giản làm tôi gợi đến xe bán tải.
Người đàn ông chúi đầu về cốp xe, nhưng tiếng tiếp cận của chúng tôi khiến ông ta liền ngẩng lên. Một lần nữa, Nito phóng ra sau tôi.
“Này, nhóc đã lái nó mà không không thực sự bảo trì gì hết. Nhóc có một viên mana cũ rít mà đã bị cháy thành tro đây,” ông nói cũng như đóng sầm cốp, rồi cất dụng cụ đi và nhấc hộp lên. “Chúng ta cũng sẽ cần dắt nó theo.”
Đó là tất cả những gì ông ta nói trước khi bước ngang qua chúng tôi.
“Ông ấy nói nó cần phải đi về phân xưởng.”
“Nghe rồi,” cô đáp ngay.
“Được thôi,” tôi trả lời.
Tôi thoái lui về Kettle trong khi cô ấy trừng mắt nhìn mình; ở chỗ mà cô từng núp sau lưng tôi. Ông già cơ khí ấy đã chất đồ đạc lên xe với các cử động thuần thục, và những gì mà chúng tôi có thể làm là đứng xem. Điều duy nhất mà tôi thực sự đã làm là đặt vật dụng cắm trại về lại Kettle.
Người đàn ông móc một sợi thép lớn dưới đáy Kettle. Ông leo lên cầu thang bên hông của xe cứu hộ để vào ghế tài xế, và quăng cho bọn tôi một cái nhìn trước khi đóng cửa.
“Cô đang đứng đó làm gì? Nhanh lên xe nào. Chúng ta đi giờ.”
Tôi làm theo như điều mà mình vừa nói và leo vào ghế tài xế của Kettle, chuyển hành lý từ ghế phụ sang ghế sau. Nito vẫn bơ vơ đứng đó. Một tiếng phù của khói bay ra từ xe cứu hộ cùng với một tiếng huýt rít.
“Thôi nào, lên đi,” tôi nói, thò đầu ra ngoài cửa sổ. Cô ấy thẳng người và bước tới, sau đó mở cửa ghế phụ rồi ngắc ngứ.
“Ùmm… Tôi có thể vào chứ?” Cô hỏi.
“Tất nhiên. Thôi nào, hoặc cô sẽ bị bỏ lại đấy.”
Xe tải bắt đầu từ từ khởi hành như voi ma mút đi loạng choạng. Cô liều mạng nhảy vô ghế phụ.
“A, quau.”
Sợi dây căng ra, và Kettle bắt đầu lắc lư. Nito dùng hai tay để kéo cánh cửa, còn tôi thì nắm chặt vô lăng và chỉ điều khiển phương hướng. Xe tải chậm chạp bẻ lái sang phía nhà ga rồi dừng ngay bên xe ba gác của cô.
Cả hai chúng tôi vươn cổ ra để xem ông ta định làm gì. Ông leo xuống bệ và đặt tay lên cần gạt gần ấy, sau đó cánh tay của trục bắt đầu di chuyển và xả hơi. Nó trông gần như một máy gắp thú trong khu vui chơi vậy. Một khi nó treo ngay bên trên chiếc xe, ông trèo xuống và gắn các sợi dây từ cánh tay vào mỗi bốn bánh của xe. Ông làm xong trong giây lát, và rồi dùng cần gạt lần nữa để nhấc bổng nó lên.
“Quoa, đỉnh thật,” tôi thở.
“Hử… Sẽ không rơi chứ? Tôi không thích nó.”
“Nó sẽ ổn thôi. Có lẽ.”
“Có lẽ? Anh vừa nói có lẽ, phải không?”
Vừa bứt rứt cô vừa nhìn chiếc xe ba bánh tự động lơ lửng trên không trung. Trái ngược với sự lo lắng của cô, nó chạm xuống bệ mà không có dấu hiệu chao đảo nào, còn người đàn ông thì cài chốt nó trước khi nhảy về trong ghế tài. Chúng tôi bắt đầu thư giãn. Tôi cầm vô lăng, nhưng những gì mà tôi cần làm là theo khớp với tay lái khi cả hai ra ngoài đường sá, và hướng đi sau đó chỉ còn là một con đường thẳng.
Nito đè mũi vào cửa kính khi cô quan sát nhà ga đang dần xa hơn. Nhà ga lặng lẽ đứng trên mặt nước, và những gợn sóng lết sau chúng tôi dần biến đi trước khi chạm tới công trình. Toàn bộ cảnh vật thật thanh tao khi bạn nhìn nó từ xa.
“Tôi muốn vẽ nó…” Tiếng thì thầm phát ra từ cạnh tôi.
Tôi nhớ cái vẻ mặt của cô ấy vào lần đầu gặp mặt trên bến ga đó, dành hết sức cho bức tranh của mình. Chúng tôi không thể ngừng tiến tới, cũng như nhà ga trên mặt nước đang dần dần mờ mờ về đằng xa. Một khi nó hoàn toàn vô hình, cô rời khỏi cửa sổ và dựa lưng vào ghế.
Biểu cảm của cô đã bình tĩnh, nhưng chân mày hơi sụp xuống lại đang nói lên vẻ hối tiếc.
“Một khi xe của cô được sửa, cô có thể ghé thăm nó nữa mà, đúng không?”
“Đúng vậy,” cô ấy trả lời, nhưng tôi có thể khẳng định rằng lòng cô thì không thế.
Nó là loại “đúng vậy” mà bạn dùng lúc biết người mà mình đang nói chuyện sẽ chẳng hiểu gì, ngay cả khi đã giải thích; hoặc lúc bạn chẳng chịu kể chi tiết về nó; hoặc lúc bạn chẳng chắc chắn nên bắt đầu kể từ đâu. Nó không báo hiệu sự chấp thuận hay đồng ý, và nó là một cách khá gián tiếp trong văn nói. Cô ấy nghe như một ai đó đến từ Nhật Bản—một cô gái thời nay chính hiệu.
Xe tải đằng trước chúng tôi rên lên và xả ra một luồng hơi như một màn sương mù dày đặc, nhấn chìm chúng tôi. Tầm nhìn của chúng tôi trở nên trắng xóa rồi chẳng thể thấy gì cả. Chúng tôi chẳng biết mình đang đi đâu, hay chuyện gì sẽ xảy ra đến mình.
———————————
———————————
Không Có Dịch Vụ | 15:11 | 34%
<Ghi chú
NGƯỜI TỪ DỊ GIỚI
Hình như người từ thế giới khác trông giống các sinh vật quen thuộc hơn là người ngoài hành tinh. Có những người chúng tôi đến đây trong quá khứ, và ai ai đều biết tới họ như một điều cố nhiên. Và cũng có lẽ còn một cách để về nhà, nhưng tôi không chắc chắn mình sẽ tìm được ai đó biết chi tiết…
———————————
Đã đến lúc để ngỏ lời tạm biệt, nhưng mình nghĩ tạm biệt thì thật đáng buồn, và mình thích nói xin chào hơn. Xin chào cho một chuyến phiêu lưu mới.
—Hẹn gặp lại nhé, Fantasy World. Chúng mình hi vọng rằng Ngày mai sẽ lại đến.