Chương 2: Phân Xưởng Hơi Nước Ở Van Dyke Brown
Độ dài 12,516 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-01-05 18:00:14
Trans+Edit: Thepa
~~~~~~~~~~
1
“Nó thật kinh khủng.”
Chúng là những từ đầu tiên thốt ra từ miệng khi tôi quan sát mớ hỗn độn.
“Ông làm gì mà để nó trở nên tồi tệ như này?”
Người đàn ông nâng mày lên. Rồi thì, dường như quyết định ấy không đủ, ông khịt mũi trước khi trả lời.
“Ta là một thợ cơ khí. Ta chẳng phải đầu bếp, hầu gái, hay nội trợ. Nhà bếp chả liên quan gì đến ta.”
“Ít nhất ông phải dọn đĩa mà mình dùng chứ.”
“Vâng, ta đã dùng gỗ vụn để thay thế. Ta chỉ vứt nó đi khi ăn xong.”
“Ông thường ăn gì ạ?” Tôi ngập ngừng hỏi.
“Mọi thứ, miễn là ăn được.”
Ngay sau đó, ông ta rời căn phòng và để lại tôi phía sau.
Tay trên mông, tôi xem xét mình nên làm gì. Nó là một nhà bếp—hay đúng hơn, là một nhà bếp từ ngày xửa ngày xưa. Tôi có thể thấy rõ bóng gió của bồn rửa, bếp lò, và không gian bếp núc chung, nhưng với đống bát đĩa và hộp rỗng bẩn thỉu chất thành chồng, cùng với những tấm kim loại kỳ lạ mà hầu như chẳng thể sử dụng được. Tôi đã đề nghị làm bữa trưa, song lại bất chợt tự thấy hối hận về điều đó.
Tôi thở dài một hơi, nhìn tổng quát căn phòng thêm lần, và thoáng thấy một cánh cửa kiên cố. Kéo mạnh nó làm thoát một làn gió lạnh ra ngoài phòng, và tôi bất giác phấn khởi lên. Chỗ này hẳn phải có máy phát điện riêng; đã lâu rồi tôi chưa nhìn thấy một tủ lạnh đang thực sự chạy.
Không khí lạnh luồng qua mặt tôi, khiến da ngứa ran. Phần trong của tủ khoảng chừng một căn phòng nhỏ, và có các kệ sắp dọc theo cả tường lẫn lối đi. Nguyên liệu được xếp ngăn nắp trên mỗi đầu kệ. Nó nghe có phần nhạt nhẽo, nhưng khi nhắc đến chúng có bao nhiêu, thì chuyện cụm từ “một kho dự trữ suốt đời” làm tôi ấn tượng là hết sức chính xác.
Tôi để ý một công tắc nhỏ ở bên phải khi bước vào. Nhấc nó lên làm rạng vài bóng đèn trên trần, tắm căn phòng trong ánh sáng vàng hoe. Đến lúc để xét qua mấy kệ đồ. Có những lọ rau giấm khổng lồ mà sẽ cần cả hai tay để vác, các chồng đồ hộp, túi bỏng ngô, và lá ôliu khô, cùng với mấy thùng gỗ mà không thể biết được bên trong chỉ bằng việc đứng nhìn.
Khi tiến sâu hơn, tôi phát hiện thêm một cánh cửa mà phải nhấc một cần gạt quấn da để mở ra, và những gì mà tôi thấy ở phía bên kia làm chính mình há hốc mồm.
“Không đời nào…” Tôi kiềm chế, đưa tay che lấy miệng.
(Chuyện này… Chuyện này còn có thể?)
Tôi không thể tin được.
“Thịt đó! Nhiều thịt quá…!”
Khu vực này là buồng đông lạnh. Các khối thịt cắt miếng được ních đầy bên trong. Đối với một người chưa ăn gì ngoài đồ hộp trong hàng tháng, nó là một cảnh tượng hết sức chói lọi. Tôi nuốt ực. Giờ đây bản thân đã thấy nó, một sự cám dỗ bị che đậy cho đến nay tuôn ra từ bên trong tôi. Nó đang nài xin thịt.
Tôi để cho cửa buồng tự đóng lại; cố gắng kiềm chế ham muốn lật đật chạy đang dồn vào mình, và đi xuyên qua hành lang ngoài bếp, thẳng ra khỏi nhà.
Một kho hàng lớn bày ra trước tôi khi tôi rời khỏi. Nó được hình thành từ khung kim loại màu nâu nhạt cao chót vót, với một cần trục đồ sộ và các dây xích treo lủng lẳng ở đây và đó. Một vài phương tiện hơi nước nằm rải rác quanh mặt đất, và những cánh cửa trông như của một nhà chứa máy bay dẫn đến kho hàng. Mấy lối vào ấy bị bỏ ngỏ, cho tôi một cái nhìn trọn vẹn của cảnh vật bên ngoài. Vào lúc ông già cơ khí mang chúng tôi đến đây, ông ấy đã gọi nó là phân xưởng của mình: một phân xưởng hơi nước.
Thế nhưng hiện giờ điều đó không quan trọng, tôi chạy đến và kêu người đàn ông. Ông ấy đang săm soi capô của Kettle, song lại nhìn sang tôi với vẻ khước từ.
“Sao? Ta đang bận.”
“Ông biết thứ trong buồng đông chứ? Thịt ấy?”
“Thịt thì sao?”
“Ch-Cháu có thể sử dụng nó không ạ?”
Người đàn ông cau mày với tôi.
“Mi thích làm gì thì làm đi. Đừng làm phiền ta với mấy chuyện tào lao,” ông nói, xùy xùy tôi ra chỗ khác cũng như trở lại làm việc.
Ông ta vẫn cộc cằn như bao lần, nhưng nó không hề làm tôi thấy khó chịu chút nào. Dù gì, tôi giờ đã có sự cho phép. (Thịt đã quay lại thực đơn!) Tôi nghĩ ngợi kèm theo một cú thụi lên xuống khi quay gót bỏ đi.
Điều đầu tiên trên danh sách một khi tôi nhảy nhót về lại nhà bếp là—tất nhiên rồi—dọn dẹp. Tôi nhồi hết rác vô trong các bao bố và rửa những chồng đĩa. Lúc mà rổ đầy, tôi làm khô bất cứ thứ gì ở đó và cất hết chúng đi. May mắn thay, tàn dư từ nấu nướng không có trong bồn hay lò, và cũng không có thức ăn hay dầu mỡ khắp sàn và tường, thế nên lau thoáng qua thôi là tôi có thể bắt đầu nấu rồi.
Tôi đặt một thớt gỗ dày lên trên bệ bếp và tóm lấy một con dao. Trong khi lưỡi của nó bị mòn do lâu dài sử dụng, ai đó đã cẩn thận giữ con dao được mài giũa. Có lẽ không phải là ông già cơ khí; xét cho cùng, nhà bếp chẳng dính líu gì đến ông ta.
Vẫn cầm con dao, tôi ngó nghiêng xung quanh thêm lần. Bây giờ nó đã trở về thực trạng, không còn thứ dơ bẩn nào ngáng đường, nhà bếp đã lờ mờ lấy lại được bầu không khí vốn có của mình. Ở một bên là một ô cửa sổ cao hẹp với một tấm rèm ren màu xanh mắc ngang qua. Từ lúc tôi mở nó ra, ô cửa rước vào một làn gió hiu hiu khiến tấm rèm vỗ cánh và đổ mảng bóng khắp sàn. Xuyên qua ô cửa sổ, tôi có thể thấy hình bóng xa xa của ông già đang sửa Kettle.
Tôi ngoảnh lại nhìn vào bếp. Một cái giá treo trên tường đựng những lọ gia vị nhỏ, mỗi cái đều được ghi nhãn bằng tay lên chúng. Một tấm thảm thêu rực rỡ treo bên thân giá, và những mẩu giấy bạc màu bị mắc lên bức tường.
Mới đây tất cả chúng đều vô nghĩa—chỉ là những vật thể ngẫu nhiên mà bạn sẽ chẳng bao giờ liếc nhìn lần hai—nhưng giờ đây tôi có thể thấy vết tích của một điều gì đó hơn thế.
Hẳn là có ai đó từng sử dụng căn phòng này: vợ của người đàn ông, mẹ của ông, hay có thể còn là một cô con gái. Nó thậm chí có thể là bố hay con trai của ông. Đứng tại đó, tôi có thể hiểu thêm chút về con người họ dù là ai. Họ đối xử tốt với dao của mình, ghi nhãn các gia vị của mình để phân biệt chúng, và bảo đảm rằng mọi thứ trong tủ lạnh đều ở đúng vị trí. Họ ưa thích màu xanh, và họ từng nấu ăn mỗi ngày trong khi quan sát người thợ cơ khí làm việc.
Tôi đặt con dao xuống thớt và rời bếp. Khi tôi đến gần Kettle hơn, người đàn ông lại cau mày với tôi.
“Sao nữa?” Ông thô thiển hỏi.
“Xin lỗi ạ, cháu chỉ cần một số dụng cụ để nấu ăn.”
“Hử? Có trong nhà bếp ấy.”
“Tốt nhất nên là mấy thứ quen thuộc,” tôi bảo ông.
Người đàn ông nhìn vào công cụ trong tay mình và gật đầu.”
“Mi nói không sai.”
Nó chẳng phải chủ ý, nhưng tôi tin rằng mình đã xây nên được chút mối cảm thông giữa hai người.
Đồ nghề nấu ăn nằm trong một chiếc hộp ở ghế sau, và một khi tìm được nó, tôi khoác ba lô của mình lên vai. Tôi cũng bảo đảm rằng không được quên tấm bạt. Tôi đi về lại mặt trước của ngôi nhà và dỡ đồ đạc, giăng tấm bạt ra và ngồi bệt xuống, bắt đầu xem thoáng qua đồ của mình.
Tôi thấy thoải mái hơn khi làm nó như này. Tôi sẽ chỉ dựa vào ông ta cho nguyên liệu, và tự chính mình giải quyết phần còn lại.
2
Địa điểm có thể rất quan trọng cho việc vẽ vời, nhưng hẳn là có một nơi nào khác mà cô ấy đã chọn.
Nito đã lẩn mất vào một lúc nào đó sau khi chúng tôi mới đến đây. Cuối cùng tôi cũng tìm thấy cô. Một bộ cầu thang chạy dọc theo bức tường của phân xưởng, và cô gần như ở trên cùng của nó. Cô đang vẽ, giá vẽ của cô đang đứng trên một khoảng chiếu nghỉ nhỏ.
(Nó quá là đáng sợ để leo lên đó. Đừng bắt tôi chớ.)
Tôi hét để thu hút sự chú ý của cô ta. Sau đó tôi làm lại như thế hai lần, và rồi ba lần trước khi cô cuối cùng cũng để ý đến tôi. Nó khó để chắc chắn; cô ở quá cao trên đó, nên rốt cuộc tôi chẳng thể nhìn rõ biểu cảm của cô. Tôi bảo rằng thức ăn đã xong, và cô gật đầu. Chí ít thì… có lẽ là vậy.
Vào lúc tôi đi bảo ông già, Kettle đang trong một tình trạng kinh khủng. Các dây xích và đường ống thò ra từ nó, và ông ấy đã cho động cơ được cẩu lên từ dưới capô bằng cần trục. Các bộ phận thì được bố trí quanh khu vực. Tôi bắt đầu lo lắng rằng liệu nó có bao giờ chạy lại không.
(Không đời nào.) Tôi lắc đầu. (Sẽ ổn mà. Ông ta là dân chuyên. Nó sẽ trông gần như mới toanh sớm thôi.)
“Hử? Đồ ăn? Để đó đi. Sớm muộn gì ta cũng ăn,” ông hờ hững nói khi tôi bảo.
Dường như ông ấy không kén ăn hay không ưu tiên công việc của mình, hoặc có lẽ là cả hai. Tôi chẳng thể ép được, nên tôi quay lại ngôi nhà và ngồi đợi trên tấm bạt mà mình đã trải. Sau cùng, Nito đã tới.
“Cô hoàn thành bức tranh của mình chưa?” Tôi hỏi.
“Chưa. Nó đang khô.”
“Khô?”
“Nó là màu nước.”
(Vậy là, màu nước phải cần một bước phơi khô à.) Tôi khá chắc rằng mình đã sử dụng chúng ở hồi tiểu học, nhưng tôi không thực sự nhớ cho lắm.
Mặc cho tôi vỗ tấm bạt—hay nói cách khác, là đề nghị cô ấy ngồi kế bên mình—Nito lắc đầu. Thay vào đó, cô cúi mình và hơi ngả người về phía tôi.
“Quoa,” Nito lấy làm lạ, hai mắt của cô căng tròn khi thấy đống Baguette Sandwich trên đĩa.
“Ông ta nói tôi có thể thích làm gì thì làm với chỗ nguyên liệu,” tôi cho cô ấy biết.
“Tôi… sẽ cảm ơn ổng sau,” cô đáp trước khi cầm lấy một trong những ổ Sandwich ấy.
Một nét mặt như điệp viên đang chiêm nghiệm một nhiệm vụ bất khả khi hiện rõ trên khuôn mặt của cô khi cô dò xét nó. Bất chợt, hai mắt của cô mở to và cô luống cuống nhìn về phía tôi. Cô ấy hẳn đã nhận ra thứ có trong Sandwich.
“Đúng thế: Thịt,” Tôi nói, nhe răng ra cười.
“N-Nó màu đỏ.”
“Đây không phải là thịt đóng hộp, nó là thịt chân chính, cái chính hiệu.”
“N-Nó dày quá.”
“Tôi đã cắt nó thành miếng và nướng.”
“Còn bánh mì…?!”
“Đây là vua của Sandwich… Tuy nó hơi lãng phí, và đây là lần đầu tiên tôi làm ra nó. Người ta gọi nó là Sandwich miếng thịt.”
Mấy miếng thịt dày đến mức thò ra khỏi ổ bánh mì, và chúng xa hoa đến mức bạn gần như tự hỏi liệu bánh mì có cần thiết lắm không.
Cô nuốt ực khi nhìn vào ổ Sandwich. Nước, vẫn hơi nhuốm màu đỏ, chảy ra thành giọt từ bánh mì. Cô ngoạm một miếng, kèm một lời cảm ơn mà lẩm bẩm cho qua loa.
“Mm… Mmh? Mmm?!”
Đây là lần đầu tôi nghe ba tiếng “mmm” liên tiếp như thế; cô ấy thực sự đang xúc động. Khi hai má cô phồng ra, biểu cảm của cô dần thay đổi thành một nụ cười mà lớn hơn bất cứ cái nào tôi từng thấy trước đây.
“Mmmmh!” Cô gắng sức để nuốt trước khi toại nguyện thở phào một hơi. “Tôi chưa từng nhận ra thịt không đóng hộp có vị như thế này… Nó là một cú sốc đấy.”
“Thấy chưa, thịt là một thứ quan trọng,” tôi bảo cô với một cái gật đầu.
“Một thứ quan trọng,” cô nói, gật đầu lại.
Không ai trong chúng tôi biết nó có gì quan trọng khi cả hai ngồi và gật đầu với nhau. Chúng tôi chỉ diễn đạt cảm nghĩ của mình thành lời.
“Thức sốt vừa đắng vừa ngọt là gì?” cô hỏi.
“Tôi đã thêm hành giấm vô nước ép cùng với một ít rượu vang đỏ và bơ.”
“Anh là thiên tài ư?”
“Không có gì to tát đâu.”
Mỗi lần Nito ngoạm một miếng, một nụ cười hiện rõ trên khuôn mặt của cô, và cô rất đang tận thưởng bữa ăn. Tất nhiên là tôi cũng có ăn, và đương nhiên là nó ngon, nhưng nhìn vào biểu cảm của Nito khiến tôi nghĩ cái của cô có thể còn ngon hơn. Dù coi bộ nó chẳng thể nào được.
“Cô có thể là một thiên tài…” Tôi bảo cô.
“Về gì?”
Nếu việc thưởng thức thức ăn được coi là một nghệ thuật, thì cô ấy là thiên tài về nghệ thuật đó. Một khi cô lấp đầy thân hình của mình với ổ Sandwich, cô vừa lòng xoa bụng. Biểu cảm dịu dàng của cô vài chốc trước đã tan biến, và cô trông hoàn toàn đĩnh đạc. Tôi sẽ chỉ cần đưa thêm cho cô ta đồ ăn ngon nếu muốn thấy vẻ mặt kia lần nữa.
Bất chợt, tôi nhớ đến ông già cơ khí. Nhìn về phía ông ấy, nó trông có vẻ như ông không định sớm hay muộn sang đây. Ông vẫn đang làm việc và lau mồ hôi trên lông mày của mình. Tôi cầm lấy một cái đĩa và mang nó cho ông ta.
“Đến giờ ăn trưa rồi,” tôi bảo ông.
“Biết rồi, để đó đi, Ladi. Tôi sẽ ăn một khi dọn xong.”
Vào khoảnh khắc mà lời nói tuôn ra từ miệng của mình, người đàn ông quắc mắt và bực bội tặc lưỡi.
“Xin lỗi,” ông nói sau một lúc. “Quên nó đi.”
Tôi đặt đĩa xuống một khoảng trống nhỏ gần đó.
“Nó làm cháu nhớ. Cháu chưa giới thiệu bản thân, phải không? Cháu là Keisuke, còn cô gái đằng kia là Nito. Có lẽ khá muộn màng để nói, nhưng cảm ơn vì đã cứu bọn cháu.”
“Ta không cứu ai hết. Đây là công việc của ta.”
“Dạ, cháu có thể biết tên ông được không?”
Ông già quăng cho tôi một cái nhìn hoài nghi.
“Nó được viết ở kia kìa,” ông bảo tôi kèm một cử chỉ khó tả về hướng đó.
“Cháu không thể đọc nó. Cháu không đến từ thế giới này.”
“Ồ, thế mi là một đứa bị lạc, phải không hả?”
“Đó là một thuật ngữ khác chỉ nó à?” Tôi hỏi.
“À, mi bị lạc, phải ha?”
Rốt cuộc, tôi đồng ý. “Ông có thể nói nó lần nữa.”
Tôi miễn cưỡng chấp nhận ẩn ý mình là một đứa trẻ lạc, song thực tế nó lại khá xác đáng, nên tôi chỉ có thể nhăn nhó. Tôi còn không biết đường về nhà, chứ đừng nói đến cách để đi đến đó.
“Đen thay. Chẳng thể ngỡ rằng nơi trống trãi này rất vui nhộn. Từng sầm uất như một bãi rác trước đây cơ mà.”
Một tiếng rít của một vật kim loại phá ngang bầu không khí.
“Ờ… Ông sửa được chứ ạ?”
“‘Ông sửa được chứ,’ mi còn hỏi ư,” người đàn ông cằn nhằn, quay sang tôi. “Tất nhiên rồi, đó là công việc của ta. Nhưng nó sẽ thành một mớ hỗn độn nếu ta không có các phụ tùng, vậy nên đó là những thứ mà ta đang kiểm tra. Mà mi chuẩn bị tiền đi. Nó sẽ đắt đỏ đấy.”
“Tiền?”
“Mi không nghĩ rằng ta làm vì sức khỏe của mình, phải không?”
Nó chỉ là cách thức của thế giới mà bạn trả cho những gì mình nhận được từ người ta, và tôi thực sự kinh ngạc với chính mình vì quên điều đó.
“Không, cháu biết nên làm gì mà,” tôi cam đoan với ông.
“Vậy thì tốt.”
Thế giới này hơi làm cùn đi tâm trí của tôi. Dù là gì, tôi chưa sử dụng tiền trong một khoảng thời gian dài. Ông già trở về lại công việc của mình, còn tôi thì chuyên tâm suy nghĩ về khoản thanh toán cũng như quay gót.
“Vandyke.”
“Ể?” Tôi hỏi, quay lại lần nữa. Ông ta còn không thèm nhìn tôi.
“Đó là tên của ta.”
Hình như ông ấy đã nhớ đến câu hỏi của tôi khi nãy, và mặc cho sự thô lỗ trong câu trả lời của ông, nó chứa ti tí sự dịu dàng mà khiến tôi mỉm cười.
“Cháu rất mong đợi ở công việc sửa chữa của ông đấy, Vandyke.”
“Hẳn vậy rồi.”
Cuộc trao đổi đó làm cho tôi tin rằng mọi chuyện sẽ ổn thỏa nếu mình phó thác chúng cho ông ta.
3
Tôi tự hỏi người ta từng làm gì với chính họ trước khi có điện thoại thật. Có quá nhiều thời gian rảnh và chẳng có gì để lấp đầy nó.
Về phần mình, tôi ườn ra trước nhà và nhìn vào điện thoại. Tôi sẽ khởi động một con game, song hiển nhiên là nó sẽ không đi qua màn hình hiển thị. Sở hữu một chiếc điện thoại thông minh là vừa đủ tất, nhưng nó không “thông minh” lắm khi thiếu kết nối internet. Tôi ném nó lên đầu của ba lô cũng như tháo chiếc đồng hồ trước khi nghỉ ngơi trên tấm bạt.
Nito vẫn đang vẽ trên đầu cầu thang, còn Vandyke đang bận rộn sửa xe. Tôi là người duy nhất vô công rỗi nghề như gấu trúc trong sở thú. Thế nhưng khách tham quan luôn chiều chuộng bọn gấu trúc, nên có lẽ chúng thậm chí còn đáng giá hơn tôi…
Ý thức lan man của tôi bất ngờ bật về sự cảnh giác cao độ để chứng kiến ánh xế chiều đã bắt đầu nhuốm bầu trời bên ngoài phân xưởng một màu đỏ tươi. Tôi hẳn đã ngủ quên.
(Phải rồi, mình cần phải chuẩn bị buổi tối), tôi nghĩ ngợi.
Có một núi nguyên liệu y như tên gọi đang chờ đợi tôi, cùng với các khối thịt huyền diệu. Tôi còn có quyền sử dụng tất cả chúng theo mọi cách mà mình muốn. Tôi có thể nấu bất cứ thứ gì—tất cả bất cứ thứ gì. Đó quả là một việc hiếm có trong cái thế giới này.
Dẫu vậy, tôi chẳng có tí tự tin nào rằng mình có thể tận dụng bất kỳ cái gì trong số đó. Việc phân định được nguyên liệu và gia vị của thế giới này đều là chuyện của nếm thử. Cái này na ná cái kia, và cái kia na ná cái này, còn mấy cái mà khiến tôi thốt “cái mẹ gì đây,” thì tôi sẽ gạt hết sang một bên.
Dù gì, tôi chẳng phải đầu bếp hay gì cả. Bố mẹ của tôi hiếm khi ở nhà, thế nên tôi phải tự nấu bữa ăn cho mình, và giờ đây tôi có thể lo liệu để đạt được mức tối thiểu bằng những gì mà mình đã học được trước kia. Tuy nhiên, tôi chẳng biết nấu ăn đàng hoàng trông ra sao, nên tất cả những gì mà tôi làm là tra công thức trên điện thoại của mình và tiếp đến là đi theo chỉ dẫn. Việc hòa lẫn đồ hộp và thêm tí gia vị thì khó để nấu, còn chiên thịt trước khi bỏ nó lên trên bánh mì thì không mấy khác biệt.
“Nên làm gì cho bữa tối đây…”
(Thật ra, mình làm thế nào mà lại trở thành một đầu bếp thế?) Tôi xem xét sơ qua: Nito… trông không như cô ấy có thể nấu, và Vandyke thì… không đoái hoài mấy về đồ ăn. (Àrrr, nếu mình không làm, cả bọn sẽ không được một bữa đàng hoàng.)
Không còn lựa chọn, tôi đành ngồi dậy và rồi từ từ đứng vững. Chẳng có gì khác để cho tôi làm, nên tôi sẽ nấu.
Bước đầu tiên là đi vào tủ lạnh và nhìn tổng quát chỗ nguyên liệu của mình. Đây là cơ hội tốt cho tôi, nên tôi chộp lấy thời cơ để nếm thử một số thứ như lá ôliu giấm và dăm ba thứ trái cây khô màu đỏ. Các kệ hơi chật, nên rốt cuộc phải cần khá nhiều thời gian cho việc kiểm tra từng món.
Một khi thu thập nguyên liệu xong, tôi bước ra ngoài lần nữa và thấy Nito cúi mình trước ba lô của tôi với cây bút chì đang di chuyển trên cuốn sổ phác thảo. Tôi đoán cô ta đang vẽ một bức tĩnh vật về chiếc điện thoại và đồng hồ của mình. Vào lúc cô để ý đến sự trở lại của tôi, cô hốt hoảng khép cuốn sổ lại.
“Tôi không bận tâm đâu,” tôi bảo cô.
“Không, không sao. Xin lỗi.”
Một khi tôi bày ra chiến lợi phẩm của mình lên tấm bạt, mắt cô tròn xoe vì sửng sốt.
“Quoa, nhiều quá,” cô hiếu kỳ nói.
“Còn nhiều hơn thế nữa ở nơi mà nó xuất thân. Nó là cả một kho báu đấy.”
“Có thật là anh được phép sử dụng nó? Anh không vừa ăn cắp nó chứ?”
“Tôi trông không đáng tin cậy đến thế cơ à?”
Tôi ngồi ở góc bạt rồi lấy ra một chiếc thớt cắm trại nhỏ và một con dao. Nito đăm đăm nhìn bàn tay của tôi bổ chỗ nguyên liệu.
“Sao không dùng nhà bếp?” Cô hỏi.
“Ààà, cô thấy đấy, tôi không thể dùng nó.”
“Ông ta nói không à?”
“Không phải, ông ta thực sự có nói tôi thích làm gì thì làm mà.”
Cô ấy nghiêng đầu khó hiểu, mái tóc bạch kim của cô xõa xuống vai và thu hút ánh sáng từ hoàng hôn. Tôi xem nó chuyển sang màu sắc của kính vạn hoa được một lúc, rồi thì gãi má trước khi kết thúc dòng suy nghĩ.
“Tôi có thể cho rằng dù nó từng thuộc về ai, thì họ đã dùng nó như đang âu yếm vậy. Tôi không thể cứ bước vào đó và giành quyền kiểm soát được.”
Cô ấy ngây ra nhìn tôi.
“Nhưng…”
Cô ta không cần nói thêm gì để cho tôi hiểu mình đang nghĩ gì: (Nhưng họ không còn ở đây nữa.)
“Tuy thế, ký ức vẫn còn đó, phải không? Nếu tôi dùng nó, vậy thì nó sẽ làm họ phai mờ đi, và tôi thì không muốn như vậy. Tôi không thể nêu kĩ được nó, nhưng tôi sẽ cảm thấy tội lỗi.”
Tôi lắng giọng, nhìn xuống sản phẩm của mình. Nó khó để diễn đạt thành lời. Vandyke đã nói tôi có thể dùng nó, vì vậy lẽ ra chẳng có vấn đề nào cả. Nó có lẽ chỉ là tính đa cảm của riêng tôi khiến bản thân thấy được vết tích của một gia đình tại nơi đó. Dù sao chăng nữa, tôi có một cảm quan rành rành rằng mình không nên đứng trong căn bếp ấy.
Lại lần nữa, tôi khá chắc rằng cô ta nghĩ tôi chỉ đang nói năng luyên thuyên. Quái, tôi hầu như cũng tự nghĩ như vậy.
“Đó là một lối suy nghĩ lạ lùng,” cô bảo tôi.
Lúc tôi ngước lên, Nito đang quan sát tôi với một biểu cảm già dặn trên mặt. Đôi mắt xanh thẫm của cô ánh lên một thứ ánh sáng khờ nghệch, và tôi chẳng thể nào chịu được ánh mắt từ cô, nên tôi hạ mắt mình xuống thức ăn vì ngượng ngùng.
“Anh đang nấu gì thế?” Cô hỏi sau một hồi, kiên định quan sát tay tôi.
“Ớt nhồi thịt.”
“Ứ… c…? Nó là gì cơ?” Cô hỏi. “Đợi đã, đừng chỉ cười mà, cho tôi biết đi. Xin chàoooo, có ai đó không?”
4
Sau khi bổ xong chỗ rau, tôi giã thịt và băm nó, trước khi nhồi phân nửa của hỗn hợp vào thứ trông như ớt xanh. Tôi thấy có đồ nêm ngọt và mặn, thế là tôi cho thêm tí đường và rượu để làm tôn lên hương vị và nấu ớt nhồi thịt ở trong nó. Tất cả như vậy là gần xong xuôi. Công đoạn sửa soạn thêm duy nhất là trộn lẫn hành tây với phần còn lại của thịt băm, mà về sau tôi nặn thành hình bánh bao để bỏ vào món súp, cùng với việc rã đông một số rau quả cho xà lách. Món chính của bữa ăn kết thúc với bánh mì nướng.
Sự chênh lệch lớn là món thết tiệc không giống với bất kỳ món nào khác mà chúng tôi đã ăn trong lối sống đồ hộp từ trước đến giờ. Nito làm thinh, biểu cảm thì sửng sốt trên khuôn mặt khi cô ngoạm một miếng ớt nhồi thịt. Cô còn không chớp mắt, nguyên cả sự tồn tại của cô đang hiến dâng cho việc nhai lại. Một khi nuốt ngồm ngoàm xong, cô ấy nhìn tôi.
“Tôi muốn vẽ một bức.”
“Ờ, ý cô là sao thế?” Tôi hỏi.
Rốt cuộc, mối liên quan giữa chuyện ăn uống và chuyện vẽ vời mà cô ấy quan niệm là gì? Chí ít tôi chẳng nghĩ ra được gì hết.
“Tôi muốn đưa thứ vị ngon lành này vào trong tranh, để mình không quên nó.”
“Vậy có hơi quá đà không? Thế nhưng tôi cảm kích nó.”
Nito run bần bật, người cô lắc lư. Bạn có thể thấy được mâu thuẫn trong cô ta. Cô muốn vẽ, nhưng lại muốn ăn, nhưng vẫn muốn vẽ.
“Nó sẽ nguội ấy,” tôi cảnh cáo cô ấy.
Mặt của cô nhàu thành một vẻ tư lự khi cô há hốc mồm. Nét mặt gay gắt cho thấy rõ rằng có một điều gì đó mà cô không thể để cho xảy ra được, và cô nhanh chóng bắt đầu ăn lại. Nó là lần đầu tiên tôi thấy ai đó ăn với một cái nhìn trên mặt ác liệt đến vậy. Cô hớp súp và ngoạm một miếng nhỏ của chiếc bánh bao thịt. Hai mắt nhắm nghiền khi cô đu đưa từ bên này sang kia. (Đoán chừng cô ta thích nó.)
Mặt trời đã lặn, song có mấy bóng đèn treo trên trần của phân xưởng thắp sáng nội thất. Chúng không chạm đến mọi góc, và bóng tối quanh nhiều loại phương tiện hơi nước gây nên một bầu không khí huyền bí. Nhiều loại phế liệu nằm trong bóng tối và các bậc thang leo đến tận nơi tăm tối khiến nó như thể chúng ta đang ăn trong một căn cứ bí mật nào đó.
Tôi đang ngồi trên tấm bạt và Nito đang cúi mình như thường lệ. Vandyke thì đã buông lỏng người để ngồi trên nền và ăn trong im lặng. Tôi đã dành cho ông ta khẩu phần lớn hơn, nhưng nó đã biến mất trong tức khắc.
“Dạ, ông có thích nó không?” Tôi ngập ngừng hỏi, thấy rằng biểu cảm của ông ta vẫn chẳng hề thay đổi.
“Hở?”
Ông nhìn xuống chỗ ớt nhồi trên nĩa rồi dường như mới nhận ra mình đang ăn.
“Nó ổn. Ít ra không dở.”
“Nó rất ngon,” Nito thình lình ngắt lời.
Tôi nhìn sang cô ấy vì kinh ngạc; cô bĩu môi cũng như lườm Vandyke. Khi cả hai chúng tôi đảo mắt sang cô, hai má tái nhợt của Nito ửng đỏ, và cô ngoặt ánh mắt của chính mình xuống nền. Vandyke cười đau bụng.
“Rồi, mừng là nhóc thích nó, cô gái trẻ ạ. Ta chẳng quan tâm mấy về đồ ăn. Chưa bao giờ. Không thể cho nhóc biết liệu nó ngon hay dở được, vì thế mà ta đã từng bị rầy khá nặng. Lúc nào cũng “rốt cuộc là gì hả?!’ riết.”
Vandyke đưa thêm một miếng lên miệng, nói một hay hai câu “xin lỗi.” Nito thì chỉ lẩm bẩm “không sao đâu.”
Cô không đối phó được lắm với ông ta. Tôi cá rằng nó là do cô chưa từng đối phó với một ai như ông ta trước đây và không biết nên làm thế nào. Tôi phải thừa nhận rằng bản thân thấy xúc động khi cô ấy chủ động lên tiếng phản đối một người mà mình chẳng mấy ưa để bào chữa cho đồ ăn của tôi. Lúc mà mắt cô chạm mắt tôi, cô lườm tôi, hai má vẫn ửng đỏ. Lúc này, chí ít tôi biết chắc rằng cô đang cố giấu đi sự xấu hổ của mình.
Vandyke là người đầu tiên ăn xong và hoàn toàn chén sạch đĩa của mình, khiến tôi mỉm cười vì mãn nguyện. Tôi là người kế tiếp ăn xong, rồi đến Nito hối hả nhét miếng bự cuối cùng vô miệng và nhai như điên.
Tôi rót nước được đun trên Svea vào một cái bình mà sẵn có lá trà bên trong. Cái bình—là đồ gốm, với các hoa văn hình lá được tô lên trên nó—cùng với các lá trà và nguyên bộ đồ gốm mà tôi đã mượn từ bếp của Vandyke. Trà pha trong vài phút với nắp đậy trên, và sau đó tôi rót nó vào trong ba tách. Nó có màu nâu thẫm trong tách trà; nếu không uống thử, tôi chẳng biết liệu nó là hồng trà hay trà ôlong hay gì.
Tôi đưa ra mời Vandyke một tách và ông ta dịu dàng nhìn nó trước khi cầm lấy bằng một tay. Tôi nghi rằng Nito cũng có làn da dày như vậy, nên tôi đặt trên nền trước mặt cô ấy cái của cô. Một khi cô cuối cùng cũng xong miếng cuối, cô vươn người ra với hai tay trước khi giật chúng lại như một con chuột bạch bị sốc. Nó hẳn vẫn quá nóng đối với cô, và cô thận trọng lườm cái tách.
Tôi thổi vào trên tách của mình, tận hưởng quang cảnh, trước khi hớp một ngụm từ tốn. Trà đủ nóng để khiến tôi nhăn mặt mình, song hương vị lại sảng khoái và tiếp thêm sinh lực khi nó lan tỏa khắp lưỡi tôi. Nó hẳn là một loại trà thảo mộc nào đó—hoàn hảo cho liền sau một bữa ăn.
Sau một hồi, Vandyke lên tiếng.
“Về xe của các người.”
“A, sao?”
Cả hai chúng tôi đặt tách xuống và đứng thẳng.
“Xe ba bánh của nhóc trước, cô gái trẻ ạ. Nó xong đời rồi, ta chẳng thể làm được gì cả.”
“Cái?!” Cô kiềm chế, hai mắt rưng rưng.
“Bình nhiên liệu hoàn toàn bị đóng cặn với tro của đá mana. Nó chưa được thay mới trong một khoảng thời gian dài, phải không? Với lại, nhóc đã nạp nó với một viên đá mana hạng xoàng, chứ không phải hạng nhiên liệu, đúng chứ?”
Hai mắt của Nito căng tròn khi hiểu thấu được ông ta đang nói gì, sau đó thì ánh nhìn hạ xuống và cô bặm môi.
“Dạ, có gì khác biệt không?” Tôi hỏi.
“Chúng cơ bản là cùng một thứ, chỉ chất lượng khác nhau thôi. Cái tầm thường có một mớ phế liệu được thêm vào; hạng nhiên liệu thì khá nguyên chất. Ngay cả khi chất thừa sẽ đun nước trong lò hơi, nhưng mi lại không thể trộn chúng. Chúng có tốc độ giãn nở mana và hệ số hấp thụ nhiệt khác nhau. Áp lực và nhiệt độ trong bình nhiên liệu sẽ thay đổi tùy theo từng nơi trong buồng, và mi cũng có thể mắc phải sự dao động của áp lực mana trong ống đốt.”
Rồi, vậy đó là vấn đề.
Ít nhất, đó là điều mà tôi ước mình có thể nói ra. (Không, chẳng hiểu gì cả.)
Mép của Vandyke nhếch lên khi ông đọc được biểu cảm của tôi.
“Sao chả được, bình nhiên liệu và ống đốt trong lò hơi đều không dùng được nữa.”
“Ông có thể thay chúng được không ạ?”
“Ta muốn thế, nhưng ta lại không có các phụ tùng,” ông trả lời, khoanh tay. “Xe ba bánh tự động là mẫu mới nhất của xe hơi nước thiết kế gọn. Ngay cả thế, sản phẩm chỉ mới ra mắt tại thủ đô. Sau đó thì thế giới rơi vào tình trạng đáng tiếc này đây trước khi chúng xuống được nơi xa xăm này. Lần đầu ta thấy một cái đấy. Hầu hết mọi thứ đều được làm theo tiêu chuẩn mới, thành ra ta không thể cứ lấy vật liệu từ bất kỳ nơi nào khác.”
Lúc này, tôi đã hiểu vấn đề: do bởi nó mới như thế, nên chẳng có phụ tùng thay thế nào trên thị trường. (Điều đó khá đáng kinh ngạc.) Nito úp mặt mình sau đầu gối ở chỗ mà cô đang cúi người với hai tay quanh chúng, dán mắt vào sàn nhà. Tôi chẳng biết nên nói gì với cô ta nữa.
“Còn chàng trai, xe của mi thì cứu chữa được,” Vandyke nói, thu hút sự chú ý của tôi. “Nó cũng mới, nhưng không phải thông số kỹ thuật mới. Ta có thể xoay xở với vật liệu từ chỗ phế liệu quanh khu vực. Nhưng mà…”
Ông vuốt cằm trước khi tiếp tục.
“Ta không có vật thay thế cho lò hơi hay xi lanh.”
“Đó là tất cả những gì mà ông không có ạ?”
“Các xi lanh trong nó từng bị hỏng trước đây, và ai đó đã thay toàn bộ. Chúng được chế tạo theo tiêu chuẩn khác so với lò hơi. Tuy thế, họ đã thành công làm khớp chúng. Khá ấn tượng đấy.”
Biểu cảm tự hào trên mặt của người đó vào lúc người tặng tôi Kettle hiện lên trong tâm trí. Người ấy liên tục mày mò nó, và tôi nghĩ rằng người chỉ đang chơi trò thợ cơ khí, nhưng dường như người đủ cừ đến mức nhận lấy lời khâm phục từ Vandyke.
“Ta thường sẽ thay lò hơi hoặc xi lanh, mà chúng đã bị nối kết tùm lum với nhau. Việc thay một trong hai sẽ cần rất nhiều phụ tùng và tinh chỉnh. Nó sẽ mất nỗ lực, thời gian, và tiền bạc.”
“Ứ.”
Cái từ “tiền bạc” đè nặng lên lồng ngực tôi; tôi chẳng muốn đối phó với chủ đề đó chút nào. Dù vậy, tôi nhìn về ông ta với tia hy vọng trong đôi mắt.
“Còn sự lựa chọn khác, phải không? Nếu đó là lựa chọn duy nhất, thì ông nên báo trước ngay từ đầu.”
“Nó khả thi nếu chúng ta tháo rời xe ba bánh của cô gái trẻ cho các phụ tụng,” ông nói, gây nên một tiếng thốt ngắn ngủi từ Nito. “May thay, vật liệu của thông số kỹ thuật mới sẽ hết sức ăn khớp. Các nối mà chúng ta cần vẫn ổn, và nó sẽ đâu vào đấy ngay thôi.
Nito nhìn sang tôi. Không ai trong chúng tôi nói gì, chỉ im lặng nhìn chằm nhau với nỗi bối rối trong đôi mắt của cả hai.
“Cặp các người quyết định nên làm gì đi. Ở lại qua đêm, thích phòng nào chả được,” Vandyke bảo chúng tôi, trước khi đứng dậy và vào trong nhà.
5
Đèn của phân xưởng đã sớm tắt, chỉ để lại ánh chiếu mờ nhạt của ánh trăng xuyên qua ô cửa sổ. Càng về sâu bên trong phòng nó càng tối dần, và chỉ mỗi đèn đá mana lập lòe trên tường. Vandyke có thể sẽ không bận tâm đến chuyện chúng tôi để đèn sáng, nhưng tôi vẫn cảm thấy hơi áy náy về nó và chỉ thắp những cái gần mình.
Lúc tôi làm khô bát đĩa được xếp dọc trên rổ thoát nước, suy nghĩ của tôi chuyển hướng sang chiếc xe. Nó hoàn toàn lôgic rằng sửa chữa sẽ tốn tiền. Xét đến sự thưa thớt gần như chẳng có của người dân trong thế giới này, nó là một phép mầu khi tôi thậm chí có thể sửa được toàn diện. Vấn đề là tôi về cơ bản chẳng có tiền.
Tôi tự hỏi Nito sẽ làm gì. Ông ta bảo cô rằng xe ba bánh là quá sức để sửa, nên tôi đoán cô sẽ cần mua chiếc mới. Có rất nhiều phế liệu quanh đây, và nguyên cả núi phụ tùng, vậy thì chắc hẳn Vandyke có thể lắp ráp một cái.
Lúc tôi chất bát đĩa ráo lên lại kệ, cơ thể của tôi choán đi ánh sáng, tạo thành một hình bóng của bản thân bên trong tủ; và tôi để ý đến một cuốn sổ tay ở trên kệ dưới cùng khi đứng tại góc độ ấy. Không tài nào kháng cự được sự tò mò của mình, tôi cầm nó lên. Nó hơi bự hơn bàn tay của tôi và khá dày, với một phần bìa cứng như thể da. Khi lật thoáng qua, tôi thấy các con chữ, số, và những vết màu đều được bố trí ngăn nắp trên các trang.
“Một quyển sách dạy nấu ăn ư?” Tôi hỏi với bản thân mình.
Trong khi các con chữ nằm ngoài tầm hiểu biết của mình, từ những hình ảnh, mà tôi có thể khẳng định nó nói về thức ăn. Nhiều món được làm từ thịt, và hầu như chẳng có gì được làm từ cá. Trang khác thường có đánh dấu ở góc và một đường thẳng kẻ xuyên qua tên của món ăn với ghi chú nguệch ngoạc ở lề. Lúc tôi đưa sandwich miếng thịt cho ông ta vào buổi trưa, ông gọi tôi là Ladi. Cuốn sổ này hẳn là của người ấy—nơi mà người đó ghi chép công thức cho Vandyke.
Tôi chợt quay lưng; ló vào trong bóng tối sâu thẳm, đèn soi khắp căn bếp. Không hiểu sao mà tôi có cái cảm giác một ai khác mà tôi chưa từng gặp trước đây đang hiện diện cùng mình. Tôi khép sổ và cất nó lên lại kệ.
“Ùm…”
Tôi quay sang hướng của giọng nói và thấy mặt của Nito hé vào từ hành lang tối tăm, mái tóc xám tro của cô xõa xuống sàn.
“Vâng, sao thế?” Tôi hỏi cô.
Tôi nghĩ cô ta đã mượn một căn phòng và ngủ rồi chứ. Một cái liếc thoáng vào đồng hồ của tôi cho ta thấy nó đã quá chín giờ tối.
“Tôi muốn biết anh đang làm gì.”
“Chỉ dọn dẹp thôi. Vừa xong.”
Cô bước vào trong phòng với tiếng lẩm bẩm đã hiểu, dừng lại ở độ xa như mình đã từng vào lần đầu hai người gặp nhau. Sau cùng, cô bắt đầu lại cuộc hội thoại.
“Anh sẽ làm gì? Về chuyện chiếc xe.”
“Hỏi hay đấy. Thật ra, tôi vừa nghĩ về nó.”
“Và kết luận của anh…?”
Tôi nhún vai.
“Tôi chẳng có tiền, nên đoán chừng tôi sẽ hỏi liệu mình có thể đổi chác gì đó để được sửa không.”
Dẫu cho nói thế, thứ thực sự có giá trị mà tôi sở hữu chỉ là đồng hồ, điện thoại, và vật dụng cắm trại chất đầy trong ba lô. Tất cả chúng đều quan trọng đối với tôi và là những thứ mà tôi chẳng muốn từ bỏ, song không khỏi tránh được.
“Còn cô?” Tôi hỏi ngược lại.
Cô lắc đầu.
“Ông ta đã nói mình không sửa được nó.”
“Không định mua một chiếc khác à? Có hàng đống đang ngồi lì kia kìa, nên tôi cá rằng ông ta có thể khiến cho ít nhất một trong số chúng hoạt động.”
Một tiếng thở mạnh chợt lướt qua bờ môi của cô trước lời đề xuất. Cô dường như chưa nghĩ đến việc đó.
“Phải rồi, một chiếc khác…”
“Vậy thì trông như cô sẽ xoay sở được chuyện này, Nito. Thế thật tuyệt.”
Từ lời nói của cô ấy, tôi cho rằng cô có một số tiền, vậy nên cô có lẽ sẽ ổn. Cô ngước nhìn tôi và ngập ngừng mở miệng.
“Anh định đi đến đâu?” Cô hỏi.
“Khó để nói,” tôi trầm ngâm. (Thành thật mà nói, bản thân mình cũng muốn biết điều đó.)
Ít hơn là có đâu đó mà tôi muốn đến, còn nhiều hơn là tôi chẳng muốn ở tại nơi ấy, và điều đó đã luôn khuyến khích tôi khoác trên vai ba lô và tiếp tục bước đi. Dù sao chăng nữa, nó chẳng liên quan gì đến cô ta, và tôi biết cô đang hỏi về kế hoạch tương lai. Đó là tại sao tôi buộc bản thân phải đưa cho cô một lý do về việc mình đi lại.
“Tôi đang tìm kiếm một người. Cả tóc lẫn đồ bận đều đen mực, và khá cao to. Cô từng trông thấy ai như vậy chưa?”
“Chưa…”
Cái lắc đầu của cô quả như những gì mà tôi trông chờ, và chẳng có nào là bị thoái chí cả.
“Toàn bộ đều theo một cách ngẫu nhiên,” tôi tiếp tục. “Tôi chỉ đi đến bất kỳ nơi đâu, ghé qua nếu tìm thấy một thị trấn, và hỏi bất kỳ ai mà mình gặp liệu rằng họ biết gì không. Đại khái là thế.”
“Vậy là, một chuyến hành trình…” cô nói sau hết.
“Chắc là vậy,” tôi đồng tình, mặc cho bản thân nghĩ có lẽ sẽ chính xác hơn nếu gọi tôi là một đứa trẻ lạc chỉ đang đi tha thẩn. “Còn cô?”
“Tôi…” Cô mở miệng, “chỉ đang tìm kiếm một nơi. Tôi muốn đến đó, bất kể thế nào.”
“Nó có xa không?”
“Tôi không biết. Tuy nhiên nó có lẽ cũng không gần.”
“Điều đó thật mơ hồ.”
“Đúng. Tôi thậm chí còn không thể tìm được nó trên bản đồ.”
(Nghe có vẻ quá sức, nhưng như vậy nó hẳn là một thứ rất quan trọng.) Một cô gái ở độ tuổi của cô ấy sẽ chẳng dám một mình dấn thân vào trong cái thế giới tuyệt vọng này mà thiếu đi một niềm tin khá vững chắc thôi thúc mình.
Thế là, sự tĩnh mịch lẻn vào từ màn đêm và dừng chân giữa chúng tôi. Không gì xảy đến mà sẽ tự nhiên làm cho cuộc hội thoại nổi lên lại, và cả hai người cứ đứng đó. Từ cách cái nhìn láo liên của cô khắp phòng, tôi có thể cho rằng Nito đang tìm kiếm lời lẽ. Ánh đèn lập lòe, thay đổi biểu hiện mà cái bóng của Nito đeo bám khi nó trải dài khắp sàn.
“Anh muốn… làm một thỏa thuận với tôi chứ?”
“Một thỏa thuận?”
Vẻ bồn chồn hiện rõ trên khuôn mặt của cô. Môi liên tục gắng sức nặn thành từ trước khi cô cuối cùng cũng quyết định nên nói gì.
“Phụ tùng từ xe ba bánh của tôi sẽ giúp sửa được xe của anh, đúng không? Tôi cũng sẽ thanh toán cho việc sửa chữa.”
“Tôi thực sự muốn thế, nhưng tôi không có gì để báo đáp lại cô.”
“Giúp tôi đi tìm kiếm đi.”
“Bằng cách nào? Tôi chẳng biết gì về thế giới này. Rõ ràng là một tấm atlat sẽ có ích hơn mà.”
Nito lắc đầu và, sau khi làm một tiếng ồn bất đồng nhỏ bé, tiếp tục.
“Tôi lên đường chưa được bao lâu. Ấy thế mà, tôi lại có đủ thời gian để học được nó khắc nghiệt đến chừng nào để sinh sống ở bên ngoài nhà mình. Tôi có kiến thức từ sách, nhưng điều đó là không đủ.”
Tôi nhớ vào đêm đầu cả hai quen nhau, và cách mà cô gọi cái lon duy nhất ấy là bữa ăn của mình. Chế độ ăn như vậy nhất định chẳng thể kéo dài được lâu.
“Cũng như chiếc xe bị hỏng là do tôi lầm lẫn về viên đá mana. Đối với phương tiện hơi nước, anh cần phải trữ sẵn rất nhiều nước, và chúng khó để vận hành… Nói thật thì, tôi không chắc mình có thể tự mình lái một chiếc ra trò.”
Cô ngắt giọng, ngước nhìn thẳng vào tôi, và sau đó hoàn thiện yêu cầu của mình.
“Thế nên nó chỉ vậy cho tới khi anh tìm được thứ mà mình đang kiếm, hay cho tới khi anh hoàn lại tiền. Cho tới khi ấy, thì hẵng dạy tôi cách để tạo nên một chuyến hành trình.”
Giọng của cô biến chuyển ở vài từ cuối, đánh lên một nốt thé tai. Cô bĩu môi. Vai của cô hơi run rẩy, và tôi không thể ngỡ rằng cô ấy đã mất bấy nhiêu dũng khí để hỏi tôi câu đó sau khi cả hai gặp mặt được chẳng mấy lâu. Điều đó vừa cho thấy cô muốn tìm ra nơi ấy đến dường nào, cảm xúc của cô cháy rực ra sao. Chúng mãnh liệt đến hoa mắt.
Tôi hồi tưởng lại quá khứ, mặc dù nó thực sự chưa được bao lâu. Lúc tôi đến thế giới này, một người đàn ông bận đồ đen đã cứu vớt tôi. Ông ta sau đó bỏ tôi với chủ của Kettle, và sau một thời gian, tôi hỏi người ấy dạy tôi cách đi lại để mình có thể tìm ra người đàn ông, y như việc Nito yêu cầu tôi lúc này. Có lẽ khi ấy tôi cũng có cái nhìn giống hệt trong đôi mắt: quẫn trí, một mục tiêu trong đầu, và sẵn lòng đối mặt với muôn vàn trở ngại để đạt được nó.
(Người ấy đã trả lời như thế nào khi mình hỏi như vậy nhỉ?)
(Phải rồi, mình biết.)
“Có một điều kiện.”
“V-Vâng!”
“Tôi không chỉ là “anh.” Nó là ‘Keisuke.’ Nếu chúng ta định đi cùng nhau, ít ra cô có thể gọi tôi bằng tên được không?”
Nét mặt căng thẳng của Nito dịu đi và cô thở phào một hơi.
“Được. Nhờ anh nhé, Keisuke.”
(Mình không nghĩ cô ta sẽ dễ dàng thẳng thừng đến vậy. Mình nghĩ cô ta sẽ dè dặt hơn, có thể còn thưa mình bằng “ông” chứ… Ềh, đoán chừng nó không thành vấn đề. Suy cho cùng, mình đang mượn tiền từ cô ta.)
“Vâng, tôi cũng vậy.”
Tôi giơ tay ra, Nito nhìn vào nó rồi mới do dự vươn cái của mình tới. Làn da của cô có một sự mát mẻ khi tay của hai người ghì nhau theo một cách bắt tay vụng về.
7
Vào lúc chúng tôi hoàn thành bữa sáng và thuật lại cuộc thảo luận của mình từ đêm qua cho Vandyke, ông ta chỉ gật đầu một cái như một lời nhìn nhận ngắn gọn.
“Công việc sẽ ít hơn. Thế thì có thể sẽ giải quyết được trong hôm nay,” ông bảo chúng tôi.
“Hơn nữa, bọn cháu có một thỉnh cầu ạ.”
“Sao? Mi muốn một phụ kiện turbo áp suất cao?”
(Nó là cái gì? Nghe có vẻ tuyệt vời đấy!)
(Đợi đã, không.)
“Bọn cháu muốn gắn xe ba bánh của Nito vào đằng sau xe của cháu. Đại loại là nối kết nó, hay chỉ là kéo nó.”
“Vậy là đèo nó theo bọn mi à?”
“Đúng. Bọn cháu cần không gian cho đồ của Nito. Ông làm được không ạ?”
“Mi nghĩ ta là ai ư? Thế nhưng nó sẽ khó để lái hơn đấy.”
“Cháu sẽ gắng hết sức…” Tôi nói sau một hồi.
Vandyke gật đầu một cái với tôi trước khi đi tới Kettle.
Ánh nắng hắt vào trong phân xưởng, thắp sáng toàn khu vực. Giờ đây tôi đã có đại khái một con đường để theo đuổi, vai của tôi thấy nhẹ hơn trước kia được một lúc. Sau một hồi, tôi quay đầu vô trong. Nếu định rời trong ngày, bọn tôi sẽ cần thu xếp đồ đạc của mình.
Vào lúc tôi trở lại bên trong nhà, tôi có nghe tiếng nước. Tôi thò đầu vào bếp và thấy Nito đang rửa những gì mà cả hai đã dùng cho bữa sáng. Bồn hơi cao so với cô và nó trông như cô đang gặp trở ngại. Tôi bước tới cô ấy và dừng kế bên chiếc tủ.
“Muốn tôi làm khô đĩa không?”
“Tôi ổn.”
Sau một lời tuyên bố dõng dạc như vậy, tôi không thể cứ phớt lờ ý muốn của cô ta và tùy tiện giúp đỡ được. Tôi đứng sững đó như một thằng vô tích sự. Bởi tôi rất chẳng muốn chỉ đứng đó và quan sát cô ta, tôi tìm gì đó để giữ bản thân bận rộn. Với tay đến kệ dưới cùng, tôi kéo quyển sách dạy nấu ăn ra lần nữa và lật thoáng qua nó, giá như tôi đọc được, thì tôi sẽ suy nghĩ tất tần tật các món mà mình có thể nấu.
“Anh đang xem gì thế?” Nito hỏi.
Lúc tôi ngước lên, cô đang quăng cho tôi một cái nhìn tò mò cũng như đang làm khô đĩa bằng khăn. Tôi xoay quyển sách lại cho cô xem, vẫn mở trang mà mình đang dòm, song trước khi tôi có thể nói rõ từ “dạy nấu ăn,” cô cắt ngang tôi với một câu hỏi hiếu kỳ.
“Cho những dịp đặc biệt?”
“Hử?”
“Sao?”
Nito và tôi nhìn chằm nhau, quờ quạng tay. Cả hai chúng tôi chắc chắn mình đã giao tiếp đúng cách, song không ai trong hai người hiểu được người kia.
“Ý cô là sao, ‘cho những dịp đặc biệt?’”
Nito thở một hơi dài vì nhận thức được câu hỏi của tôi.
“Ồ, anh không thể đọc. Xin lỗi, đó là thứ được viết ở kia kìa, được khoanh tròn ở góc bên phải.”
Tôi dòm lần nữa sau lời gợi ý của cô, và hiển nhiên là có một ghi chú ở góc trang. Nó hầu như nguệch ngoạc, trái ngược với chữ viết gọn gàng, dễ đọc của phần còn lại trong quyển sách.
“Cho những dịp đặc biệt?”
(Mình tự hỏi nó tức là gì.) Tranh minh họa kề bên công thức trông không như thứ gì đặc biệt—nó chẳng có cái gì là hào nhoáng hay xa hoa. Nito lại gần, vẫn cầm đĩa.
“Mertaille… Tôi tin đó là một món nổi tiếng của Marit. Nó xuất hiện rất nhiều trong tiểu thuyết.”
“Vậy thì nó có phải là một món mà người ta ăn nhân những dịp đặc biệt không?”
“Không, tôi nghĩ nó là một món chính…” Khi cô lên tiếng, cô ngả người gần hơn để săm soi quyển sách. “Tôi đã đọc rằng Mertaille của mỗi gia đình được cho các gia vị khác nhau, và rằng nó là sự thống nhất của cả lịch sử lẫn kỉ niệm thuộc gia quyến đó. Có lẽ vì thế mà nó đặc biệt.”
(Rồi.) Tôi gật đầu. (Thế, cho những dịp đặc biệt ư?)
Hiểu rõ nó nói gì chẳng trao cho tôi khả năng để đọc nó; tất cả những gì mà nó làm là trao ý nghĩa cho mớ dòng hỗn độn trên trang. Ngay cả thế, tôi hầu như có thể thấy được cảm xúc tràn đầy tấm lòng của người viết ra nó, tuy người ấy viết nguệch ngoạc lên trên trang sách. Những lời mà tôi sắp nói chỉ là một ý tưởng, không được cân nhắc kỹ càng về việc sắp xếp từ ngữ, để mà đều tự mình bật ra từ miệng tôi.
“Này, cô có thể cho tôi biết công thức được không?”
“Anh định nấu nó à?”
“Tôi nghĩ nó sẽ thành một bữa trưa ngon miệng.”
“Chà, tôi không bận tâm,” cô nói, hai mắt đảo đi, “nhưng việc này sử dụng lò nướng.”
Cô ấy có lẽ đang cân nhắc đến chuyện miễn cưỡng dùng nhà bếp của tôi.
(Phải rồi, đó là một vấn đề,) tôi suy nghĩ, khoanh tay.
Khi tôi làm thế, một cơn gió mạnh thổi vào, khiến tấm rèm màu xanh cuồn cuộn khỏi cửa sổ. Tôi có thể thấy Vandyke trong phân xưởng, đang tận tụy với chiếc xe. Ông ấy rạng ngời, như thể là mặt trời chỉ đang soi sáng ông. Gió ngừng, và tấm rèm hạ về lại cửa sổ, chốc lát trôi qua cứ như rằng không có gì xảy ra.
“Chuyện gì thế?” Nito thắc mắc sau một chốc lát khác trôi qua.
“Tức lúc đó…” Tôi mở miệng, trước khi đổi ý. “Không, quên nó đi. Không sau đâu. Đây là bữa cuối cùng, nên tôi sẽ mượn căn bếp.”
Cô thở dài, hướng một biểu cảm không hoàn toàn hài lòng tới tôi trước khi nói, “Nếu anh nói vậy, Keisuke.”
Tuy thế tôi chẳng thể giải thích cho tô ta, và tôi không nghĩ cô sẽ hiểu kể cả mình có thử. Nó chỉ cảm thấy gần như là linh tính, như là tôi đã nhận được sự cho phép từ thế giới bên kia.
“Dù sao chăng nữa, cô có thể cho tôi biết nguyên liệu và gia vị mà chúng ta cần không?” Tôi hỏi cũng như dẫn đường vào trong tủ lạnh.
Cô nhìn vào cuốn sổ và chỉ ra những nguyên liệu—cái này là lesso, và cái đó là carin, và vân vân—nhưng tôi không tin rằng mình sẽ ghi nhớ được bất kỳ cái nào. Hơn nữa, mỗi và mọi thứ mà cô chỉ ra đều đóng hộp.
“Người ta đóng hộp nguyên liệu à?” Tôi hỏi.
“Mấy cái này được đóng hộp để nấu,” cô đáp. “Chúng được niêm phong để bảo quản.”
“Tôi đoán nó chỉ vì tiện lời?”
Dẫu cho cá nhân tôi nghĩ rằng điều tuyệt nhất về thực phẩm đóng hộ là bạn có thể ăn chúng ngay sau khi khui.
“Chúng được tạo một khi bọn tôi biết sự bão hòa mana sẽ phá hủy thế giới. Một số người thu thập nguồn cung và tách biệt chính mình dưới lòng đất hay trên núi, và họ đã mua các loại đồ này. Nó là do đồ hộp nấu sẵn có vị dở tệ.”
Tôi đồng tình gật đầu. Nói rằng các bữa đồ hộp nấu sẵn là không ăn được cho tới khi bạn bỏ vào vài ba nỗ lực là một cách nói giảm nói tránh, vì thế nó là một sự tiến triển lôgic về phần đóng hộp nguyên liệu và để cho người mua tự nấu mọi thứ mà mình muốn.
Một khi tôi thu thập xong các hộp mà cô ấy đã chỉ thị, chúng tôi bước về lại nhà bếp và tôi bày chúng lên bệ bếp. Hai người quay trở lại để thu thập gia vị, rồi mới sẵn sàng.
“Giờ thì, chúng ta nên bắt đầu từ đâu?” Tôi lớn tiếng tự hỏi.
“Có vẻ như anh cần làm nóng lò.”
“Ngay đây.”
Đương nhiên, trong khi tôi có thể mở lò nướng ở dưới lò bếp, tôi chẳng biết cách nào để sử dụng thiết bị này. Tôi trừng mắt nó được một lúc, cho tới khi tay của Nito trường vào từ bên cạnh và bật công tắc gần cửa lò vài lần.
“Hình như vẫn còn nhiên liệu,” cô nói thêm.
“Cảm ơn,” tôi cuối cùng cũng xoay sở được.
“Không có chi. Tiếp theo, hãy xắt những nguyên liệu.”
Chúng tôi khép cửa lò còn tôi cầm một chiếc hộp lên. Một khi nắp được mở, tôi thấy có ba quả dưa leo đầy đặn, tròn trịa bên trong. Chúng hơi hơi héo khi tôi rút ra, song vẫn là rau quả tươi.
“Quoa, đống này là đồ hộp ư?”
“Người ta trộn một ít bột đá mana, và mana phản ứng để hoàn toàn niêm phong nó.”
“Quoa, mi là gì, Siêu đồ hộp hả…?”
“Ý anh tức là gì?”
“Không gì cả.”
Tôi mở hết mọi hộp và cắt mọi thứ thành lát như Nito chỉ đạo.
“Nó nói anh cần chiên qua chúng một khi cắt xong.”
“Vâng, thưa bếp trưởng!”
“Tôi không phải bếp trưởng,” cô khăng khăng, cũng như tôi đặt chảo chiên lên bếp và rót vào một ít dầu.
Thế nhưng tôi thực sự chẳng biết cách để nhóm nó; lúc tôi xê ra một bên, Nito rất chi là cạn lời. Sau một lúc, rau mềm đi, nước rỉ ra từ chúng.
“Tiếp đến anh cần thêm vào những thứ này,” Nito nói, đưa chúng cho tôi, sau khi nếm thử, tôi đoán là giấm và rượu trắng.
“Khi nó đã được trộn đều, trải hỗn hợp khắp đáy của một vật đựng chịu nhiệt.”
Tôi nhìn thoáng qua kệ và tìm thấy một cái chảo kim loại dày màu đen—loại mà tựa như một cái xoong. Tôi cũng mang theo một cái nắp vừa khít với nó. Tôi rót tí dầu vào trong xoong để ngăn bất cứ thứ gì dính vào, rồi mới trải rau mềm ra bên trong nó.
“Hình như là, anh bỏ thêm quả cắt lát lên mặt trên của nó nữa đi.”
“Hử, bỏ quả lên mặt trên của rau chiên á.”
“Phần rau đầu tiên là piperade. Nó hoạt động như nước sốt.”
“Chà, tôi chưa từng nghe về điều đó trước đây,” tôi ngẫm ngợi.
Có bốn loại quả, tất cả chúng đều tương tự những gì từ trái đất: dưa leo, cà tím, cà chua, và củ cải trắng. Tôi bày những miếng lát khắp mặt trên của sốt, xen kẽ các loại theo thứ tự ngẫu nhiên sao cho chúng lấn lên nhau thành một vòng tròn quanh rìa xoong, và rồi thành một hình xoắn ốc hướng vào trung tâm.
“Gì nữa?”
“Thêm thảo mộc, muối, và dầu, sau đó đậy với nắp và nướng nó.”
Thế là gia vị ở đây khá đơn giản: chỉ một số thảo mộc và muối. Có lẽ món ăn phụ thuộc vào việc kéo dài hương vị của rau quả. Tôi mở cửa lò và một làn sóng hơi nóng trước mắt đập vào tôi. Cái xoong với nắp ở trên đi vào trong lò, và tôi sau đó khép cửa lại.
“Phù… Chúng ta để mặc nó trong bao lâu nhỉ?”
“Hình như là ‘confit’ nó trong một giờ.”
“Confit?”
“Phải, confit.”
“Ừ… Nó tức là gì thế?”
Cô làm thinh trong một lát.
“Tôi không biết nữa.”
Vậy nó là những gì mà cô không biết?
Chúng tôi nhìn chằm nhau được một lúc trước khi nở một nụ cười thật tươi. Coi bộ, bắt tay để nấu một món gì đó đã giúp cả hai gần gũi hơn. Tôi chẳng biết chính xác nó sẽ mất bao lâu, song chí ít hai người sẽ cùng nhau đi đó đây trong một khoảng thời gian. So với khi không thì nó tốt hơn nhiều khi chúng tôi hòa thuận.
“Tôi hy vọng rằng nó sẽ ngon.”
“Chắc chắn rồi. Sau tất cả, chúng ta đã hết sức mình làm ra nó.”
(Chà, đại loại vậy.)
7
Như mọi lần, chúng tôi ăn ở ngoài. Tôi thoáng nghĩ bọn tôi cũng có thể dùng bàn ăn nếu đã mượn căn bếp rồi, nhưng tôi chẳng cả gan đến mức có thể ăn tự nhiên như ở nhà tại bàn ăn của người khác.
Vandyke lặng thinh buông người xuống mặt đất để tham gia cùng chúng tôi trước khi đơn giản nói, “Xong rồi.”
“Ông đã sửa xong rồi ư?” Tôi hỏi.
“Ừ, cộng việc nối kết chúng lại với nhau. Thế nhưng đừng gỡ nó ra xa quá. Và lái chậm lại, tránh xa đá vụn.”
Sự khuây khỏa lấp đầy lồng ngực tôi. Tôi biết ông ta sẽ xoay sở được nó, song đúng là nghe tin xe sửa xong vẫn trút một gánh nặng lớn khỏi vai tôi.
“Thế, mi thanh toán theo cách nào đây?”
“Như vậy đủ chưa?” Nito hỏi.
Vandyke nhìn vào đề nghị của cô trước khi nâng lông mày lên và quăng cho tôi một cái liếc xéo. Cái nhìn đăm đăm trút nặng lên vai tôi. Tôi gần như có thể nghe ông chất vấn, “Mi đang bắt cô gái trẻ này chi trả hả?”
(Tôi xin lỗi tôi thật vô dụng.)
Tay của Nito chứa một cái nhẫn kèm một viên ngọc nhỏ màu đỏ bên trong nó. Ông ta lấy nó và giơ nó lên ánh sáng. Khi nhìn vào nó, ông dường như đã quyết định.
“Được, đủ rồi.”
Nito thở phào một hơi. Lẽ nào nó quý giá đối với cô? Tôi suýt hỏi ra, nhưng lại siết chặt nắm đấm và để dành câu hỏi của mình cho thời điểm cuối cùng. Nếu cô đã quyết định thanh toán bằng thứ đó, vậy thì tôi chẳng thể chối cãi được, và tôi không có gì để trả giá thay nó. Tôi cảm thấy thật thảm hại.
“Ùmm, tại sao ông lại đòi một khoản thanh toán?” Nito ngập ngừng hỏi.
“Ý nhóc tức là khi chẳng có cách nào để mà sử dụng tiền?” Ông hỏi ngược lại.
Nito rụt rè làm một cái gật đầu để đáp lại. Nó cũng là điều mà tôi muốn biết. Nguyên cả lý do của việc đồng tiền và đá quý có thể được dùng cho thanh toán là vì nhiều người cùng nhau chấp nhận giá trị của chúng. Tuy nhiên, không còn người nữa, hay không còn các cửa hàng; giá trị về căn bản đã xuống dốc. Đó là tại sao tôi nghĩ những thứ như vậy sẽ chỉ là một gánh nặng và chẳng để lại giá trị nào bên mình.
“Bởi đây là công việc của ta. Có giá trị vì được trả công để làm.”
“Công việc của ông?” Nito hỏi.
“Ta sửa xe, khách hàng thanh toán nó, ta trả họ xe. Nó chỉ là công việc của ta vì ta được trả công. Vậy thì nó đáng làm, và nó làm hài lòng ta. Không thành vấn đề gì sau khi ta đã nhận được một khoản thanh toán. Điều đó là cuộc sống của ta; điều đó giúp ta đi tiếp. Dù thế giới đổi thay đến đâu, cuộc sống của ta sẽ không.”
Ông dường như tỏa sáng khi giãi bày lời lẽ bộc bạch của mình, và tôi không khỏi khâm phục thái độ ngoan cố, kiên định của ông. Bạn có thể nói rằng từ chối để thay đổi cuộc sống ngay cả khi thế giới đã sụp đổ là bướng bỉnh, nhưng sự từ chối để thay đổi của ông ấy tức là bạn luôn có thể dựa dẫm vào ông, bất kể gì xảy ra.
“Đúng ạ,” tôi nói vì hiểu rõ. “Ông làm việc, vậy thì ông được trả công. Nó chỉ là dĩ nhiên.”
Tôi đã hoàn toàn và tuyệt quên điều đó.
“Chà,” ông lẩm bẩm sau một hồi, “Đã lâu rồi ta chưa làm một việc nào thực sự gọi là một ‘công việc,’ nên đoán chừng ta cũng nên nói cảm ơn.”
Ánh nhìn của ông dời khỏi chúng tôi, cho thấy sự ngượng ngùng của mình, trước khi ông vỗ tay lên đầu gối và nói, “Chà, hãy ăn nào.”
Nito và tôi mỉm cười đáp lại và giở nắp khỏi xoong. Hơi bốc lên từ nó, mờ dần, để lộ ra rằng rau quả sau khi nấu đã trở nên sặc sỡ hơn rất nhiều. Nhiệt độ lan ra toàn bộ món ăn một cách hoàn hảo, và tuy nó cháy sém ở vài chỗ, việc quan sát nó chỉ càng kích thích cơn thèm ăn của bọn tôi.
“Đợi đã, cái này…”
“Cháu tìm thấy một cuốn sổ trong kệ với một loạt các công thức bên trong, nên cháu đã thử làm theo một cái để nấu ra thứ này ạ.”
Ông bưng đĩa và nhìn chằm chằm vào thức ăn—Mertaille—trong một lúc lâu.
Sau cùng, ông ấy dùng nĩa để múc lên một miếng. Ông cẩn thận nhai nó, cử động quai hàm của ông chậm dần cho tới khi nó cuối cùng cũng ngừng lại, hai mắt của ông nhắm lại trong hồi ức. Nó cảm thấy như là thứ khoảnh khắc mà bạn chẳng bao giờ dám làm gián đoạn vậy.
“Hương vị đó làm ta sống lại. Thế nhưng nó hơi khác một chút.”
Ông mỉm cười, mở mắt. Nó là một nụ cười nồng hậu, loại mà xảy đến môi bạn khi bạn gợi lại một ký ức quý báu.
“Cháu nghĩ ông không quan tâm mấy về đồ ăn chứ?” Tôi hỏi.
“Bữa ăn này thì khác,” ông bảo tôi, múc một miếng nữa.
“Công thức có viết ‘cho những dịp đặc biệt’ bên cạnh nó. Điều đó tức là gì vậy ạ?”
Ngay cả giờ đây chúng tôi đã làm ra nó, nó chỉ cảm thấy như một bữa ăn gia đình, và tôi chẳng thể hiểu tại sao nó bị chọn ra.
“Có á?” Ông cười, rồi bảo tôi, với ánh mắt dán vào nồi, “Lần đầu tiên ăn nó, ta đã kêu nó ngon. Bà ấy đã rất hạnh phúc, và nó xuất hiện vào mỗi ngày sau đó. Năm hôm sau, ta đã khá ngán nó. Thế nhưng ta chẳng thể cứ vậy mà nói thẳng ra, nên ta đã nói những gì làm nó ngon miệng là khi hai người ăn nhân những dịp đặc biệt.”
Sau đó ông lẩm bẩm rằng mình lẽ ra không nên nói gì hết, và đáng lẽ phải ăn nó nhiều hơn.
8
Một khi chúng tôi xếp xong lều, ba lô, và các đồ khác vào lại trong Kettle, tôi nhìn thoáng qua toàn bộ cách bố trí của cả hai. Ống nối kim loại sau lưng Kettle gắn vào một cái sào dày và dài chừng một mét mà nối kết nó với xe ba bánh của Nito.
“Nó là một chiếc ba bánh, nên nó không phù hợp để kéo," Vandyke giải thích. “Mi chẳng muốn lúc nào cũng phải cầm lái nó, đúng không?”
Có một khung kim loại với hai bánh được gắn vào ở mặt trước của xe ba bánh, khả năng là để ngăn nó khỏi bị chao khi chúng tôi bẻ lái. Kim loại trần trụi, được hàn lởm chởm với nhau, khiến tôi cảm thấy khá là nam tính. Tôi liếc qua Nito và thấy lông mày của cô nhăn lại, một biểu cảm mâu thuẫn trên mặt cô. Có lẽ, theo quan điểm của phụ nữ, cô ấy sẽ ưa một cái trông tinh tế hơn một chút.
Một khi chúng tôi bốc vác xong, Vandyke cung cấp cho cả hai các thùng nước và nhiên liệu. Đó là cách Phân xưởng Hơi nước Vandyke làm việc—một sự thật mà tôi rất chi biết ơn. Sau khi ông dặn chúng tôi các điều cơ bản về việc kéo xe, cùng với cách tránh làm quá tải phương tiện hơi nước và một vài mẹo bảo dưỡng cơ bản, chúng tôi cuối cùng cũng sẵn sàng lên đường.
“Thế nhưng ông chắc chắn bọn cháu có thể đem nhiều thức ăn như này không ạ?” Tôi hỏi những gì cả hai đều đang băn khoăn.
Chúng tôi đã lấp đầy không gian trống trong xe của Nito với những hộp thực phẩm và gia vị từ tủ lạnh, cùng với một khối thịt. Vandyke đã mang nó ra và bảo chúng tôi đem theo.
“Nếu không thì sẽ rất lãng phí. Ta không thể ăn hết, hay thậm chí là nấu nó. Coi nó là lời cảm ơn cho việc món ăn của mi làm ta sống lại.”
“Cảm ơn, vì tất cả. Ông thực sự đã cứu bọn cháu ạ.”
Vandyke vỗ vào vai tôi.
“Ta chỉ làm những gì mình có thể. Thượng lộ bình an,” ông dặn tôi.
Tôi gật đầu. Tôi bao giờ cũng định đi đường “bình an.” Sau đó, Nito—người núp nửa thân đằng sau tôi nãy giờ—bước ra và ngước nhìn ông ấy.
“Cảm ơn vì chỗ thức ăn,” cô nói sau một hồi. “Hơn nữa, cảm ơn vì đã cho cháu mượn giường và để bọn cháu sử dụng nhà tắm. Ùm, quả thực việc sửa xe cũng rất giúp ích.”
Lời lẽ của cô nghe ấp úng, song lại một mực nói ra. Lông mày của Vandyke nâng lên vì hơi hơi bất ngờ. Dù vậy, ông trao cho cô một nụ cười nam tính và làm rối tóc cô, khiến cô bật ra một tiếng hét nhỏ.
“Bảo trọng nhé,” ông bảo cô.
“Ứứứ… Tóc cháu rối beng cả rồi,” cô cằn nhằn đồng thời giơ cánh tay đang giấu sau lưng mình ra, và chìa một thứ về phía ông ta.
“Cái này, ùm, là để cảm ơn. Nó không nhiều lắm, nhưng cháu đã làm tốt nhất có thể ạ.”
Cô đang cầm một tờ giấy dày với màu sắc sặc sỡ chồng lên: là một bức tranh màu nước. Nó từ góc độ hướng xuống phân xưởng. Kettle và xe ba bánh ở trong khung với Vandyke đang cật lực sửa chúng. Đó có lẽ là tôi ở trước nhà. Cũng như là đồ vật rải rác khắp phân xưởng, toàn bộ đều được thực hiện bằng màu sắc thẫm của nâu và đen. Ấy thế mà, không biết sao hình ảnh chẳng hiện tí màu đen nào. Có lẽ đó là do quầng nắng chói chang xen vào từ bên ngoài.
Vandyke cầm tờ giấy và nhìn kỹ nó. Sau đó ông tặng Nito một cái cúi chào lịch sự, gần như thể một hiệp sĩ vừa được trao huân chương từ cô công chúa của mình.
“Ta sẽ coi trọng nó,” ông bảo cô.
“Ể, à, ùm, n-nó không ấn tượng vậy đâu ạ!” Cô lắp bắp, hốt hoảng.
Tôi cười, và chẳng mất bao lâu, Vandyke cũng tham gia. Khi mà cô nhận ra bọn tôi đang trêu chọc mình, cô phồng hai má và dậm chân hướng về ghế phụ của Kettle. Suy cho cùng, ghế tài của xe ba bánh đang bị choán bởi thịt.
“Nhóc ấy là một cô bé ngoan,” Vandyke nói. “Đây là lần đầu tiên ta được tặng tranh.”
Vừa nói ông vừa dán mắt mình vào bức tranh với một nụ cười trên mặt. Ông ấy hẳn có phần ngượng ngùng.
“Bọn cháu nên khởi hành,” tôi bảo ông. “Cảm ơn vì tất cả sự giúp đỡ của ông ạ.”
Vandyke gật đầu và sau đó lại nhìn vào tôi.
“Ta có một yêu cầu,” ông nói.
“Dạ sao?” Tôi hỏi, sửng sốt trước sự nghiêm túc thình lình của ông.
Ông ấy để một cánh tay đằng sau mình và lấy ra một cuốn sổ da—quyển sách dạy nấu ăn mà bọn tôi đã dùng gần đây.
“Mi đang trong một chuyến hành trình. Mang theo bà ấy đi.”
“Nếu ông gọi nó là ‘bà,’ nó hẳn quý giá đối với ông.”
“Ổn cả thôi. Ta có phân xưởng này, vậy nên ta chẳng bao giờ dắt bả đi một chuyến được. Nó hẳn tẻ nhạt, bị kẹt trong nhà riết. Ta muốn bả mở mang tầm mắt. Dù cho bả có thể sẽ nổi giận vì đã quá muộn màng.”
“Ông cũng không theo à?” Tôi hỏi.
“Đây là nơi ta chôn thân. Ta không thể để trống phân xưởng, và ta cần chăm sóc mộ của bả. Ta biết nó kỳ lạ khi giao chuyện này cho mi, nhưng…”
Lồng ngực của tôi ấm lên khi Vandyke dao động. (Chuẩn, ông ta là một gã hậu đậu, thẳng thắn,) tôi nghĩ.
“Cháu hiểu rồi. Cháu sẽ chăm sóc bà ấy.”
Tôi lấy cuốn sổ và Vandyke mỉm cười như trẻ con.
“Cảm ơn nhé.”
“Ông thanh toán cho công việc. Bọn cháu có rất nhiều đồ ăn, nên giờ đây bọn cháu phải làm việc.”
“Coi như mi đã học được nó,” ông nói, giơ tay ra.
Tôi nắm giữ lấy nó. Nó là một bàn tay to, rắn chắc, và khỏe mạnh, loại mà bạn có thể thấu cảm được cuộc đời và lịch sử của ông ấy khi cầm nó.
“Hẹn gặp lại.”
“Dạ.”
Một khi vào trong Kettle, tôi chạm ánh mắt của Nito. Hai má của cô vẫn phồng phồng và cô buồn bực lườm tôi. Tôi chẳng thể nhịn được một nụ cười ăn năn. Nhiên liệu đã được châm và động cơ bắt đầu ấm lên. Các đồng hồ đều cho thấy không có vấn đề gì. Tôi mở cửa sổ. Nó có lẽ vô nghĩa, hay một điều gì đó mà tốt hơn không nên kể ra, hay thậm chí có lẽ chỉ là giả định của riêng tôi, song tôi vẫn muốn nói nó.
“Nhà bếp và tủ lạnh đều được giữ ngăn nắp. Cuốn sổ cũng được cẩn thận biên soạn,” tôi bảo Vandyke.
“Và vậy thì sao?”
“Cháu chắc chắn bà ấy đã tận hưởng mỗi và mọi ngày, và cháu nghĩ bà ấy cũng hạnh phúc khi nấu cho ông.”
Miệng của ông hở ra. Sau đó ông lên tiếng với một nụ cười ăn năn của riêng mình.
“Bởi vì nhà bếp ngăn nắp à? Mi là một đứa kỳ lạ ấy. Thế nhưng, cảm ơn. Cặp các người đã dọn dẹp nó, và tin hay không thì ta có thể rửa chén. Bả sẽ tức điên nếu ta để nó rơi vào tình trạng đó lần nữa.”
“Mừng là vậy,” tôi bảo ông, mỉm cười lại cũng như đạp ga.
Hơi nước phun ra từ lò hơi vào trong các pít-tông, hả một tiếng huýt mà gần như khiến tôi cảm thấy hoài niệm. Kettle chẳng tỏ ra dấu hiệu nặng nề nào từ việc gánh thêm xe ba bánh khi lăn bánh một cách trơn tru. Nito vẫy tay về phía Vandyke, và ông vụng về vẫy tay lại ngay cả khi đang tư lự. Tôi có thể hầu như có thể nghe ông trách mắng cô vì khiến ông làm những việc mà mình không quen.
Khi chúng tôi rời mái hiên của nóc phân xưởng, ánh nắng rọi xuống hai người từ bầu trời xanh. Tôi phải hơi nheo mắt khi các đồng cỏ và đồi cát trắng của quang cảnh chói lọi gần như mờ mịt trải dài trước mắt. Con đường lờ đờ hướng ra khỏi sân. Khi chúng tôi lái dọc theo nó, tôi liếc vào gương chiếu hậu và thấy Vandyle đã đi ra ngoài để tiễn chúng tôi.
Nito ngả người ra khỏi cửa sổ để nhìn về ông ta. Hình bóng của ông nhỏ dần trước khi cuối cùng cũng trở thành một chấm đen, và ngay đến phân xưởng rồi cũng tan biến khỏi tầm nhìn. Chỉ khi đó thì Nito mới dựa lưng vào trong lại ghế phụ.
“Ông ta là một người đàn ông tốt,” tôi nói.
Nito gật đầu và cất một tiếng ồn nhỏ của sự đồng tình.
“Chúng ta nên ghé thăm ông ta lần nữa,” tôi nói thêm.
Tiếng ồn đồng tình giống hệt đáp lại tôi, giọng của cô hơi run.
Tôi bảo cô rằng hai người chắc chắn sẽ đạt được nó.