• Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Hồ sơ đặc biệt: Trưởng phòng điều hành tại Nhật Bản, đặc vụ tình báo đặc biệt Nicolas Stallone của CIA tại Châu Á(1)

Độ dài 4,831 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 01:43:12

Nicolas Stallone là một đặc vụ thuộc Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ, hay còn gọi là CIA, hiện đang hoạt động bí mật tại Nhật Bản. Bảy năm trước, anh ta đã được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Điều hành tại Nhật Bản của CIA ở Châu Á vì một số lý do như: có kinh nghiệm làm học sinh trao đổi tại Nhật Bản, nói tiếng Nhật tốt, có thể hòa nhập với những người xung quanh, và là một người Nhật thế hệ hai[note26028].

Một đặc vụ tình báo đặc biệt, theo cách dễ hiểu hơn, là "một điệp viên siêu năng lực". Điều này liên quan đến khả năng đi xuyên tường, dịch chuyển tức thời, theo dõi vị trí của ai đó bằng cách chạm vào một lá thư họ đã gửi và tiên tri. Đó là những gì rất 'đặc biệt' về những đặc vụ này. Hay chí ít, đó là ý tưởng đằng sau sự thành lập đơn vị này vào năm 1970.

Vào những năm 70, phong trào tâm linh đã lên đến đỉnh điểm. Các siêu năng lực gia xuất hiện trên TV gần như mỗi ngày, thể hiện những năng lực như nổi giữa không trung và uốn cong chiếc thìa. Một số hứa hẹn với khả năng chữa lành tâm linh hoặc thần giao cách cảm. Những người khác khẳng định rằng người ngoài hành tinh đã đáp xuống Trái đất. Cũng có những nhà tiên tri tự xưng được mọi người đổ xô đến. Đương nhiên, suy nghĩ này cũng đã ảnh hưởng đến các tổ chức quân sự và tình báo.

Giữa cuộc Chiến tranh Lạnh với Liên Xô, Mỹ đã cân nhắc nghiêm túc về việc sử dụng các siêu năng lực gia trong cuộc chiến đó. Một người lính siêu năng lực có thể làm ngừng đập tim của bất kỳ ai chỉ bằng cách nhìn chằm chằm vào họ! Một đặc vụ tình báo siêu năng lực chỉ đơn thuần nhắm mắt mà có thể nghe lén cuộc họp giữa những thằng khốn hàng đầu của quốc gia thù địch mặc dù cách xa cả ngàn km! Một người chữa lành tâm linh có thể loại bỏ viên đạn được găm vào ai đó chỉ bằng cái phẩy tay mà không gây thêm vết thương nào trên da! Họ sẽ là bất khả chiến bại.

Đó là thời đại khi mà không có gì là lạ khi tin vào những điều như vậy. Một lượng lớn số tiền được bí mật đổ vào quân đội và CIA, mọi người đều điên cuồng tìm các siêu năng lực gia và sử dụng họ vào thực tế trước khi Liên Xô cũng làm điều tương tự.

Tuy nhiên, họ đã thất bại. Rốt cuộc thì, họ tỉnh giấc khỏi cơn mơ của chính mình và đối mặt với thực tại. Mặc dù đã sử dụng rất nhiều vốn, nhân lực và thời gian để tìm kiếm các siêu năng lực gia nhưng họ hoàn toàn không kiếm được gì cả. Tất cả các 'siêu năng lực gia' mà họ tìm thấy không khác gì những bậc thầy về sự khéo léo, những nghệ sĩ lừa đảo hay chỉ đơn giản là những kẻ nói dối. Mọi báo cáo đều không có nội dung hoặc cả chồng giấy dày không có nội dung. Mọi thứ đều vô ích.

Do đó, số tiền tài trợ đã bị cắt giảm, và những nghiên cứu về siêu năng lực đã chuyển từ một dự án bí mật ưu tiên hàng đầu thành một thứ đáng xấu hổ cần phải che giấu. Tuy nhiên, nó vẫn chưa bị loại bỏ hoàn toàn. Quân đội đã loại bỏ hoàn toàn các chiến lược liên quan đến các siêu năng lực gia, nhưng trong CIA, vị trí này của đơn vị Đặc vụ Tình báo Đặc biệt vẫn còn. Do những hy vọng và ước mơ yếu đuối của một số một số quan chức cấp cao với lý do "Có lẽ các siêu năng gia hiếm đến nỗi chúng ta vẫn chưa tìm ra được" hay "Có lẽ thực sự có siêu năng gia đang sống ở đâu đó, chỉ là đang lẩn trốn" nên đơn vị này được giao nhiệm vụ mang về các cuộc điều tra khác nhau.

Cuối cùng, Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và rồi thế kỷ mới đã đến. Và đến một thời điểm nhất định, đơn vị này đã dần trở thành không làm mà đòi có ăn nhưng vẫn được CIA giữ lại. Vông việc chỉ rất đơn giản như đi xử lý thông tin 'đặc biệt', tức là tìm kiếm các siêu năng lực gia và viết các báo cáo nửa vời. Vấn đề không phải là cách viết các báo cáo tồi tệ như thế nào, mà là không còn ai kỳ vọng về những thông tin hữu ích liên quan đến những siêu năng lực nữa. Nói trắng ra thì công việc này chỉ mang ý nghĩa làm để có lương mà thôi.

Tuy nhiên, khi được chọn vào vị trí Đặc vụ Tình báo Đặc biệt này, Nicolas, khi 29 tuổi, rất vui mừng. Chắc chắn, đó là một cái chức không làm mà đòi có ăn, nhưng mức lương thì cực kỳ tốt. Đây cũng là bằng chứng cho thấy anh được coi là tài năng trong mắt cấp trên. Nhưng xa hơn nữa, cũng chứng tỏ rằng đối với cấp trên anh chỉ là một đứa con nít.

Nicolas đã mặc kệ nhà cửa và nói với vợ rằng anh đã chuyển công việc sang Nhật Bản, anh không thể nói chi tiết hơn ngoài việc được thăng chức, và họ nên chuẩn bị cho chuyến đi ngay lập tức. Rồi cùng ngày hôm ấy, anh thấy mình bị tát cùng với tờ đơn ly hôn trên tay. Họ có một cô con gái hai tuổi và vợ anh không muốn đưa con gái nhỏ phải ở nước ngoài. Thói quen uống rượu vô cùng xấu của Nicolas cũng là một vấn đề lớn. Mặc dù là một người siêng năng và nghiêm túc trong khi tỉnh táo, nhưng Nicolas rất thích uống rượu. Bất cứ khi nào say, anh sẽ chi tiêu quá mức và mua những món đồ xa xỉ, hoặc gây tai nạn, hay đôi khi là cả hai. Do đó, tài chính của gia đình họ luôn rất eo hẹp và có những tin đồn không hay về gia đình. Nên thói quen này của Nicolas đã là trở thành vấn đề được bàn tán trong một thời gian dài.

Gia đình Stallone tràn ngập trong âm thanh của một cuộc tranh cãi kéo dài cả ngày lẫn đêm, cuối cùng kết thúc bằng việc Nicolas chấp nhận ly hôn và tự mình đến Nhật Bản. Trong lúc nóng giận, Nicolas tự thuyết phục bản thân mình rằng nếu anh đạt được thành tựu to lớn và trở về nhà trong vinh quang, thì vợ anh sẽ nhìn nhận lại con người anh và mọi thứ sẽ được sửa chữa. Nicolas tự tin rằng mình có thể làm một việc như vậy. Nicolas đủ tài năng để CIA sẵn sàng trả cho một mức lương khổng lồ chỉ để giữ anh lại.

Lý do thực sự đằng sau là do khả năng phát hiện sự thật của anh. Nicolas trở nên chậm chạp và vô cùng tệ hại với những vụ nhỏ như những tên trộm hay tống tiền diễn ra hàng ngày. Tuy nhiên, đối với những vụ kỳ lạ hoặc phức tạp, đầu của anh lại trở nên vô cùng sắc nét.

Chính anh là người đã bắt giữ hung thủ trong chuỗi các vụ giết người theo nghi thức ma cà rồng được gọi là 'Nỗi kinh hoàng tại Dunwich'. Chính anh ta là người đã tìm thấy bằng chứng phạm tội trong 'Bí ẩn Thế kỉ 21'-nhóm người lừa đảo đã che giấu mình đằng sau vô số lớp ngụy trang rất tài tình. Chính anh ta đã xác định được bọn chuột của băng đảng ma túy Alka đã cài cắm vào CIA. Tất cả những thứ đó đều là thành tích của anh.

Nicolas chỉ mất hai ngày để bắt được hung thủ trong vụ Dunwich, mặc dù cảnh sát trong khu vực không tìm thêm được thông tin gì mới sau hai tháng điều tra. Câu chuyện về cách anh ta phát hiện ra manh mối trong Bí ẩn Thế kỉ 21, kẻ đã cố gắng tránh bị phát hiện cho đến khi chúng gây ra 600 triệu đô la tiền thiệt hại, và sau đó họ còn bắt giữ chúng trong một khung cảnh đầy kịch tính mà vẫn còn được kể cho đến ngày nay. Còn đối với cách anh ta xác định được bọn tội phạm trong vụ án Alka, ờm thì, trên thực tế thì nó có trong một bộ phim điệp viên.

Tuy nhiên, vô số thành tích sáng lọi của anh đều bị mờ nhạt bởi thói quen uống rượu.

Trong vụ Dunwich, Nicolas tham gia lực lượng cảnh sát truy đuổi tên tội phạm tẩu thoát trong tình trạng say xỉn. Khiến

 một chiếc xe cảnh sát đâm vào một khu dân cư, làm bị thương bảy người dân vô tội ở nhiều mức độ khác nhau.

Đối với vụ án Enigma, anh đã tiết lộ quá nhiều bí mật của CIA cho một thành viên Enigma đeo mặt nạ đang lừa anh uống rượu tại quán bar. Nếu vụ bắt giữ này xảy ra muộn hơn hai phút, thì những bí mật đó sẽ được lan ra khắp internet.

Còn trong vụ Alka, anh đã thực hiện một cách hoàn hảo cho đến khi xác định được hết bọn gián điệp. Nhưng sau đó, bọn chúng nói với Nicolas và anh cho phép thực hiện ước nguyện "Thưởng thức ly rượu cuối cùng trước khi giã từ cõi đời" và ngay khi có cơ hội bọn chúng lấy chai rượu vang đập vào đầu anh, rồi sau đó trốn đi.

Với số thành tựu cũng bằng số lần phạm sai lầm. Người có vận đen với rượu nhưng vẫn cứ đâm đầu vào uống rượu, người đàn ông bị gia đình ruồng bỏ(một phần là tại rượu), người thể hiện được cả hai thái cực của quang phổ trong bức phù điêu. Vâng, chỉ có thể là anh, Nicolas Stallone.

Với lý do là một đặc vụ truy đuổi một tên tội phạm truy nã đã trốn ra nước ngoài, Nicolas đến Nhật Bản và bắt đầu nhiệm vụ của mình. Đặc vụ Nicolas rất tự tin. Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới có thể không có tiến triển, bất chấp nhiều công sức và tiền bạc đã bỏ vào. Tuy nhiên, với thực lực và sự nhiệt tình của mình, anh chắc chắ mình sẽ là người tìm ra những siêu năng lực gia. Nicolas hoàn toàn tin rằng đến cuối cùng thì anh sẽ trở về quê nhà như một người khám phá vĩ đại và là một đặc vụ huyền thoại. Nếu anh không thể làm, thì cũng không ai làm được cả!

Đặc vụ Nicolas đã dành hết sức lực của mình để điều tra Nhật Bản từ trên xuống dưới. Anh đã đăng ký các giáo phái tôn giáo tuyên bố rằng họ có người sáng lập làm phép lạ. Anh xâm nhập vào các giáo hội huyền bí. Anh đã đi qua tất cả các ngôi đền và đền thờ gắn liền với những câu chuyện siêu nhiên. Anh đuổi theo mọi hiện tượng đáng ngờ trên phương tiện truyền thông xã hội, kiểm tra và phân tích từng chi tiết. Anh dành trọn hai tháng cho tin đồn về "những chiếc xe bus bay trên không trung vào buổi đêm " ở ngoại ô Tokyo. Cuộc điều tra của anh về vụ"sự phá hủy bí ẩn tại ngôi nhà bà Marrick" mất cả bốn tháng trời.

Tuy nhiên, tất cả các trường hợp tiềm năng đó đều đi vào ngõ cụt. Anh không thấy giấu vết hay tóc của bất kỳ siêu năng lực gia nào. Bất kể Nicolas tìm đến mức nào, thì bằng chứng cụ thể về các siêu năng lực gia cũng không xuất hiện.

Những nỗ lực chỉ để lấy 'làn khói' đó dần dần làm cho lòng nhiệt huyết điều tra của Nicolas vơi đi, và thế là bốn năm trôi qua trong chớp mắt. Rồi đặc vụ Nicolas nhận ra rằng. Anh đã điên. Vấn đề không còn nằm ở chỗ khả năng phát hiện sự thật của anh nếu như thực tế là các siêu năng lực gia đã không tồn tại ngay t đầu. Làm sao mà tìm được một thứ không tồn tại trên đời này chứ?

Ngay khi Nicolas trở nên mất tự tin thì anh đã bị giáng ngay 1 đòn kết liễu: một trong những đồng nghiệp trước đây của Nicolas, có ý tốt, đã bí mật chụp về cho anh một bức ảnh về đứa con gái giờ đã sáu tuổi của anh. Mặc dù vậy, điều này có vẻ như là sự tàn nhẫn thuần túy đối với Nicolas, người chỉ nhớ tới hình ảnh đứa con gái khi còn hai tuổi, đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy cô bé. Quá nhiều năm trời mà Nicolas đã bỏ lỡ, bỏ lỡ quá nhiều khoảnh khắc của con gái mình.

Sự hối hận này như giọt nước tràn ly đã hoàn toàn làm tan nát trái tim của Nicolas. Anh không cò thể diện và danh tiếng nữa. Đây không phải là lúc để theo đuổi những thứ giả tưởng ngớ ngẩn nữa. Những gì anh cần đó là từ bỏ rượu và sống một cuộc sống yên bình ở nhà, ngay cả khi điều đó tức là anh phải chuyển sang một vị trí có mức lương thấp hơn nhiều.

Nicolas xin cấp trên cho phép trở về Mỹ. Tuy nhiên, thật không may, anh đã làm việc đó trong khi hoàn toàn say rượu, khóc nức nở trong điện thoại. Họ ngay lập tức từ chối Nicolas và từ chối vô điều kiện tất cả các kiến nghị sau đó của anh. Đặc vụ Nicolas giờ bị giáng xuống thành một kẻ vô dụng.

Sau đó, anh dành ba năm để đi đến các quán bar ở Tokyo. Râu anh thì mọc dài, còn anh thì đắm mình trong rượu từ sáng đến tối, và bộ đồ của anh ta trở nên tồi tàn và mòn đi. Đôi mắt thì nặng trĩu, và cái bóng của thần chết như thể lảng vảng quanh anh. Nhưng những vẻ mặt như vậy đã  xuất hiện quá phổ biến vào ban đêm ở Tokyo, vậy nên không ai đi ngang qua nhìn thấy anh thêm lần nữa.

Tuy nhiên, sau bảy năm khi đến Nhật Bản, bước ngoặt đầu tiên đã đến với đặc vụ Nicolas. Sau khi lang thang qua hầu hết các quán bar ở Tokyo, anh bất ngờ phát hiện ra một thứ gì đó xa lạ nằm gọn trong một con hẻm nhỏ trong khu vực Kitasenju của thành phố Adachi. Trên cánh cửa ở cuối cầu thang ngắn có treo một tấm biển CLOSED mà một tuần trước không có. Biển hiệu thì không có. Không có cửa sổ, nên cũng không thể nhìn vào bên trong. Mặc dù cảm thấy thật vô nghĩa khi đi đến đây, nhưng Nicolas có thể ngửi thấy mùi rượu nhẹ thoang thoảng qua cánh cửa. Vì vậy, anh lúng túng vào quán bar mặc dù đã có tấm biển.

Bên trong cửa hàng tràn ngập mùi gỗ mới và nhiều loại rượu khác nhau. Đôi mắt mờ của đặc vụ Nicolas ngay lập tức nhìn qua dãy chai trên kệ phía sau quầy. Trong dãy tủ rượu đó, khiến cho anh ta ngạc nhiên và phấn khích, có những nhãn cực kỳ đắt tiền và hiếm mà người ta còn khó có thể tìm thấy trong các nhà hàng hạng nhất, chứ nói gì đến một quán bar mới mở.

Hơn cả sự hài lòng với việc lựa chọn rượu, đặc vụ Nicolas chộp lấy một chiếc ghế ở quầy và kiểm tra bên trong quán. Có năm chỗ ngồi tại quầy và hai cái bàn. Nhạc jazz nhẹ nhàng được chơi trên máy ghi âm đặt trong một góc của quầy, mang lại cho cửa hàng một không khí nhẹ nhàng và tĩnh lặng. Không có khách hàng nào khác trong cửa hàng, và chỉ có một người duy nhất trông giống như chủ quán bar ở đằng sau quầy.

Chủ quán bar dường như là một chàng trai tầm hơn 20 tuổi. Chiếc sơ mi sành điệu và vest đen cùng với kiểu tóc bóng mượt nhưng không bù đắp được nhiều cho sự hiện diện thiếu trang nghiêm của mình. Thực ra, trông anh ta giống như một thanh niên từ dưới phố cố làm chủ một quán bar. Cứ cho là, với vẻ mặt lạnh lùng trên khuôn mặt anh ta dường như khiến bộ quần áo có cảm giác không phù hợp với anh, nhưng anh ta lại quyết định không làm mất vẻ ngoài hiện tại của mình.

Chủ quán bar đang đánh bóng một ly rượu, không thèm nhìn dù chỉ một cái liếc vào Nicolas. Có vẻ như anh ta không có ý định chào đón cũng như xua đuổi vị khách hàng này, người đã bước vào khi quán bar đóng cửa.

"Gimlet" Đặc vụ Nicolas nói trong khi lấy một điếu thuốc ra và châm lửa.

Chủ quán nhìn thoáng qua Nicolas, trong khi tiếp tục giữ vẻ lạnh lùng trên khuôn mặt, đặt ly nước đang đánh bóng xuống, lấy ra một khay thuốc lá, rồi sau đó bắt đầu pha chế cocktail.

Gimlet là một loại cocktail được làm bằng cách thêm nước cốt chanh vào một loại rượu chưng cất như rượu gin và sau đó trộn nó vào bình lắc. Đó là một thức uống chuẩn được cung cấp tại hầu hết các quán bar. Mặc dù Nicolas đã gọi mà không nhìn vào thực đơn, nhưng ông chủ không có vẻ gì đặc biệt, và anh ta bắt đầu làm đồ uống ngay lập tức.

Có nhiều cách để thêm hương vị cho gimlet, chẳng hạn như thêm rượu mùi, đường hoặc gomme syrup. Nhưng đánh giá từ những thành phần mà chủ quán bar lấy ra thì có vẻ như anh ta sẽ làm theo cách đơn giản nhất, công thức của người mới bắt đầu. Không có vấn đề gì về bản thân cách làm đó, nhưng có gì đó làm giằng xé tâm trí của đặc vụ Nicolas. Sau vài giây quan sát, anh nhận ra lý do.

Mặc dù chủ quán chỉ nhìn vào đôi tay mình, nhưng có một cảm giác do dự rất khó diễn tả, như thể anh ta vừa phải ghi nhớ thứ gì đó vừa thực hiện các bước. Điều này có phần hơi khác, giống như anh ta đang cố gắng nhớ cách thực hiện. Đặc vụ Nicolas nghĩ điều này rất kỳ lạ, nhưng sau một ngụm gimlet được phục vụ một cách lặng lẽ, rượu ngay lập tức khiến cho Nicolas quên đi những nghi ngờ của mình.

Khi đặc vụ Nicolas đặt chiếc ly rỗng của mình xuống như thể đập nó xuống quầy, một thứ gì đó dường như đã thu hút sự chú ý của anh. Nicu cố gắng suy nghĩ bằng cái đầu óc say xỉn của mình trong khi chờ đợi thức uống tiếp theo mà anh gọi, đó là một thứ ít được biết đến hơn. Khi tiếp tục gõ nhẹ vào mép ly cocktail của mình theo tiếng nhạc jazz, anh dường như nhận ra điều gì đó.

Về âm vang.

Đây không phải là âm thanh của một quầy gỗ. Sau khi gõ thêm vài lần, anh ta xác nhận rằng quầy được gia cố bằng các tấm kim loại hoặc thứ gì đó tương tự.

Các bộ phim thường có cảnh các nhân vật trốn sau một quầy phục vụ như một chiếc lá chắn khỏi đạn, nhưng thực tế điều này là không thể. Đạn có thể dễ dàng xuyên qua, vì vậy việc dùng các quầy bar để chống đạn là vô nghĩa. Điều đó cũng vô nghĩa với việc dùng các chai rượu để chống đạn. Làm như vậy tốn rất nhiều tiền, mà cơ hội để một quán bar trở thành nơi diễn ra một cuộc đấu súng thực sự là gần như là không. Nếu đó là một quầy làm bằng đá, thì nó thực sự có thể chống đạn ở một mức độ nhất định, nhưng sẽ gặp rắc rối khi gia cố một quầy gỗ bằng một tấm kim loại bởi vì nó hoàn toàn là vô dụng.

Giống như kiểu có thể đây là nỗ lực của một cậu bé vị thành niên lầm tưởng, nghĩ rằng nơi này sẽ sẵn sàng cho một vụ đấu súng, Nicolas nghĩ vậy trong khi nghiêng đầu mình. Tuy nhiên, một lần nữa, anh uống một ngụm đồ uống mới, và rượu ngay lập tức khiến anh quên đi những nghi ngờ của mình.

Thi thoảng, chủ quán lại thay đổi đĩa than trên máy nghe nhạc, giai điệu khác nhau khiến không khí trong cửa hàng thay đổi một chút. Nhìn vin chủ quán khó gần này thì khó thể tưởng tượng rằng anh ta làm trong ngành dịch vụ, nhưng thay vì mang lại cảm giác bất mãn, thì thực sự khá thoải mái. Một cái gì đó trong cửa hàng, hoặc có thể là tất cả mọi thứ trong cửa hàng, dường như đang làm rung chuyển thứ gì đó đã bị lãng quên và chìm sâu trong trái tim của đặc vụ Nicolas.

Bây giờ, anh muốn hưởng thụ thêm một chút, thế nên đặc vụ Nicolas thử gọi ra 5 đồ uống ra cùng một lúc cho vui. Chủ quán đi ra đằng sau một lúc, rồi sau đó xuất hiện trở lại với cả 5 ly cocktail trên một chiếc khay bạc. Tốc độ bất ngờ với đồ uống được hoàn thành một cách ngẫu nhiên đã đặc vụ Nicolas làm một tràng cười, vừa lấy bàn tay đập vào mặt quầy trong sự thích thú. Nó nhanh đến mức như thể chủ quán mọc ra nhiều cánh tay để phục vụ cho cả năm người cùng lúc. Phần lý trí nhỏ bé trong tâm trí say xỉn của anh đã phủ nhận điều này, thì thầm với anh rằng có lẽ có những nhân viên khác ở phía sau, nhưng một phần khác trong đầu nói với anh rằng không có dấu hiệu nào cho thấy có ai khác ở đằng sau cả. Suy nghĩ đi suy nghĩ lại, đã tạo nên cuộc tranh luận trong tâm trí anh ta. Tuy nhiên, sau khi uống hết năm ly, một lần nữa rượu lại khiến anh quên đi nghi ngờ của mình.

Điều tiếp theo mà Nicolas biết, đó là bản thân tỉnh dậy ngồi ngoài quầy. Một mùi thơm trong không khí khiến anh ta từ từ ngẩng mặt lên trong khi nhăn mặt vì cơn đau đầu khủng khiếp. Cánh tay mà anh gối lên đã hoàn toàn bị tê liệt, nước dãi thì vương vãi lung tung. Tờ biên lai mà anh tìm thấy nằm ở dưới cánh tay mình đã được vẽ nguệch ngoạc, và cũng bị vấy bẩn với nước dãi. Nicolas kiểm tra đồng hồ đeo tay. Buổi sáng đã đi qua, trời đã gần trưa.

"Ôi giời...!" Anh nhảy dựng lên trong bối rối và cố gắng bước xuống khỏi băng ghế quầy, nhưng sau đó vấp ngã.

Vậy là Nicolas đã làm việc này thêm một lần nữa. Anh là một chuyên gia ngủ thiếp đi ở quán bar và thức dậy vào sáng hôm sau, nhưng đã được một thời gian kể từ lần cuối cùng anh làm vậy. Anh nghĩ mình thật may mắn vì đã không bị bỏ rơi ra ngoài trời. Nicolas không có ký ức gì về đêm hôm trước, nhưng bằng cách nào đó anh ta có ấn tượng rằng anh đã rất vui vào tối hôm đó.

Anh ta nhìn xung quanh tìm nhà vệ sinh để giải quyết cơn buồn nôn trong bụng, rồi thấy chủ quán bar đặt một tách cà phê nóng trước mặt, với hơi nước vẫn bốc lên. Nicolas cảm ơn, sau đó rút cạn toàn bộ cốc trong một lần. Không giống như cà phê hòa tan, hương thơm phong phú cùng hương vị mạnh này lan tỏa khắp cơ thể anh. Rõ ràng, tách cà phê này đã sử dụng loại hạt vô cùng tốt. Hương thơm, mùi vị, độ nóng và caffeine tất cả phối hợp với nhau tiếp thêm sinh lực cho anh ta.

"Không, không, tôi sẽ rời đi ngay. Cảm ơn vì đã để tôi ở lại qua đêm."

Sau khi từ chối chủ quán, người có vẻ như sẽ mời anh ta thêm một cốc nữa, Nicolas nói lời cảm ơn và lấy ra 10 ngàn yên. Theo tờ biên lai trong tay, có vẻ như anh đã thanh toán xong hóa đơn, nhưng ý của anh ở đây là còn cả khoản thanh toán cho cà phê, ở lại qua đêm và cho tất cả những rắc rối mà anh đã gây ra. Sẽ không sao nếu đêm hôm đó Nicolas hành xử như một khách hàng bình thường, nhưng để lộ một sự đáng xấu hổ như vậy trong lần đầu tiên đến đây đã làm cho anh cảm thấy hơi xấu hổ.

"..."

"Không sao, tôi không đổi ý đâu. Đây là tiền bo."

Từ lúc Nicolas nói vậy trong khi đang cầm số tiền, chủ quán ngập ngừng với khuôn mặt bối rối. Sau khi dành một chút thời gian để suy nghĩ, cuối cùng thì anh cho lại tiền thừa vào sổ đăng ký, rồi đưa tay vào trong túi, lấy ra một mẩu kẹo và đặt vào tay đặc vụ Nicolas.

Đặc vụ Nicolas nhìn vào viên kẹo dâu trông rẻ tiền được bọc trong giấy gói trên tay. Sau một giây ngạc nhiên, anh đột ngột cười lớn. Có rất nhiều người Nhật Bản đã dè dặt quá mức đến nỗi họ sẽ nhất quyết trả lại cho anh ta cho dù tiền thừa có ít đến đâu. Về việc đó, cách xử lý của vị chủ quán này thật tuyệt vời. Nó làm cho Nicolas muốn đến đây thêm một lần nữa.

Anh rời khỏi quán bar dưới lòng đất này và trở lại với ánh sáng ban ngày, chen lấn giữa sự hối hả và nhộn nhịp của thành phố. Một ngày không đổi đã bắt đầu trở lại. Tuy nhiên, vị ngọt của kẹo trong miệng đã cho anh một chút động lực để thực hiện công việc một cách nghiêm chỉnh hơn lần đầu tiên sau một thời gian khá lâu.

Sau đó, đặc vụ Nicolas dần trở thành khách quen của quán bar, cứ hai hoặc ba ngày ghé thăm một lần. Quán bar luôn để CLOSED, nhưng anh ta hiểu ra được cái quy tắc hơi kỳ lạ này: Nếu cánh cửa bị khóa, thì nó thực sự  đóng; nhưng nếu không phải, thì quán bar thực sự vẫn đang trong trạng thái kinh doanh.

Quán bar, trong suốt toàn bộ thời gian, dường như chỉ phục vụ dành riêng cho một mình đặc vụ Nicolas. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, sẽ có những đêm anh không ở một mình trong quán bar. Phần lớn những khách hàng khác là những người say rượu đi lang thang, giống như chính anh, nhưng rõ ràng rằng cũng có một người bình thường khác: một người phụ nữ có vẻ đẹp khó tin, và trang phục cũng thật khó tin.

Vào một đêm nào đó sau hai tháng ghé thăm quán bar, đặc vụ Nicolas để quên chiếc bật lửa của mình. Chiếc bật lửa mà ông chủ đã cho anh ta mượn có tên và địa chỉ được in trên đó, và đây là lần đầu tiên đặc vụ Nicolas biết rằng tên của quán bar là "Ama-no-Iwato". Anh đã qua hàng trăm quán bar trên khắp Nhật Bản, nhưng đây là quán đầu tiên anh thường xuyên lui tới. Đây cũng là quán bar đầu tiên mà anh không gây ra một vụ ẩu đả hay bất kỳ vấn đề lớn nào trong khi say.

Đặc vụ Nicolas bắt đầu làm tiếp những bản báo cáo mà trước đây anh đã 'kéo giãn cao su' trong vài năm nay cho CIA và anh bắt đầu trân trọng những lần đến Ama-no-Iwato như một nơi ẩn náu để quên đi mọi rắc rối trong công việc.

u36017-7fe66798-a1e9-4078-9b1f-923d570640c3.jpg

Bình luận (0)Facebook