Chương 1: Cuộc gặp gỡ hiếm hoi xoa dịu con tim thổn thức (1)
Độ dài 9,843 từ - Lần cập nhật cuối: 2022-08-01 23:45:09
1
Tôi vốn không phải người dậy sớm. Hồi còn đi học, tôi thường phải chật vật mãi mới lết được ra khỏi giường. Hôm nào mà thức khuya, sáng hôm sau tôi sẽ vừa thay quần áo vừa gà gật.
Nhưng giờ đây, hôm nào tôi cũng dậy vào lúc mặt trời mọc, nhanh chóng thay đồ và bắt đầu làm việc ngay từ sáng sớm, một sự tiến bộ đáng kinh ngạc. Đến tôi cũng bất ngờ trước lối sống kỷ luật của mình.
Ở thế giới này không có TV, không có máy chơi game, điện thoại hay máy tính. Do không biết chữ, tôi cũng không thể đọc sách. Tóm lại, tôi chẳng có bất kỳ lý do nào để thức muộn cả.
Và bởi làm việc từ sáng sớm, dĩ nhiên tôi sẽ thấy mệt mỏi vào buổi tối.
Khi không có một phương thức giải trí nào, lựa chọn duy nhất của tôi là đi ngủ. Tôi ngủ ngay lập tức khi vừa đặt lưng xuống giường, và tự nhiên sẽ tỉnh dậy vào sáng sớm.
Đích thân tôi đã được trải nghiệm câu nói ‘Thay đổi suy nghĩ của một người là vô ích, hãy thay đổi môi trường sống của họ.’ Thay vì quyết tâm trong đầu sẽ làm gì đó, ta có thể tạo ra thói quen bằng cách đặt bản thân vào một môi trường mà sẽ buộc ta phải làm như thế.
Tuy vậy, đêm hôm qua tôi đã không thể ngủ ngon.
Lý do rất đơn giản, bởi vì Linaria đang ở trong nhà tôi. Cụ thể hơn, là ở trong căn phòng ngay đối diện.
Là một thằng con trai mới lớn khỏe mạnh, tôi đâu thể nào giữ nổi bình tĩnh khi có một cô gái dễ thương sống chung dưới một mái nhà chứ.
Đêm qua tôi cứ xoay bên nọ bên kia trên giường, dỏng tai lên lắng nghe trong căn phòng im ắng.
Trằn trọc một lúc, tôi rốt cuộc nhận ra rằng mình như thế này bởi vì đây là nhà của tôi. Chỉ cần tôi nghĩ rằng hai đứa tôi là những khách thuê trọ trong cùng một tòa chung cư, thay vì một trai một gái sống chung nhà là ổn.
Cứ nghĩ thế này đi, tôi đang ở trong phòng 201, còn Linaria ở phòng 202. Chúng tôi tuy sống trong cùng một tòa nhà, nhưng phòng thì tách biệt hoàn toàn với nhau. Quá hay, chẳng việc gì phải bồn chồn hết.
Thế là tôi cuối cùng đã có thể ngủ, nhưng lại được ngủ ít hơn.
Kể cả khi thức khuya, tôi vẫn sẽ tỉnh dậy vào cùng giờ như mọi khi, đó chính là sức mạnh của thói quen.
Tôi đang vừa ngái ngủ, vừa chuẩn bị để mở cửa quán thì nghe tiếng ai đó bước chân xuống cầu thang. Tay tôi bỗng trở nên run rẩy, phá hỏng mất nhịp dao đang thái rau củ.
Tiếng bước chân đi về phía đối diện vị trí của tôi, sau đó là có tiếng nước chảy. Vậy là cô ấy đang rửa mặt.
“Sao mình lại phải nghe trộm nhỉ?”
Thật phiền phức khi tốc độ làm việc cứ bị gián đoạn. Hít một hơi thật sâu, tôi lại tiếp tục thái rau. Có vài chỗ trông không đều, nhưng tôi chẳng quan tâm.
Sau khi làm xong, có một giọng nói vọng về phía tôi.
“...mm, chào buổi sáng.”
Tôi quay lại và thấy Linaria đang nhìn tôi từ cửa vào lối dẫn lên phòng ngủ.
Mặc dù vốn đã biết sự hiện diện của cô ấy qua tiếng chân, tôi vẫn trả lời như thể giờ mới trông thấy.
“Chào buổi sáng, Linaria. Tối qua ngủ ngon chứ?”
“Ừ, ngon lắm. Tớ ngủ no nê luôn.”
“Thế hả, vậy tốt rồi.”
“Cậu thì sao?”
“Hả?”
“Cậu ngủ ngon chứ?”
“Haha, dĩ nhiên, còn ngon hơn mọi ngày ấy.”
“Vậy à, tốt.”
Chúng tôi đang thi với nhau đấy ư?
Linaria vẫn thò nửa thân trên ở lối vào ra nhìn. Tôi thì tiếp tục thái chỗ rau củ đã thái một lần cho nhỏ hơn nữa, mặc dù đấy không phải điều tôi định làm.
Cảm thấy hơi ngượng, tôi không thể ngừng di chuyển hay nhìn thẳng vào Linaria.
“Cậu muốn ăn sáng chưa?”
Sự tĩnh lặng lúc này khiến tôi cảm giác thật khó xử, nên bèn lập tức tìm chủ đề để nói.
“Cậu hay ăn sáng vào giờ này à?”
“Không, tớ thường ăn muộn hơn.”
“Thế thì tớ cũng ăn muộn hơn. Tớ sẽ đi học bài một lúc trước khi ăn.”
Sáng sớm vậy mà cô ấy đã học bài rồi!
Chăm chỉ ghê. Đời tôi chưa bao giờ học bài trước bữa sáng cả, nên trong mắt tôi Linaria như thể một người từ thế giới khác vậy.
“Khi nào xong bữa sáng tớ gọi cậu nhé.”
“Ừ, cảm ơn cậu.”
Sau khi kết thúc cuộc trò chuyện đầy sự lúng túng, Linaria quay trở lại tầng hai. Tôi nhìn đống rau củ đã bị thái vụn ra và thở dài.
Liệu ngày nào cũng sẽ như thế này trong suốt kỳ nghỉ hè ư? Tim tôi đập thình thịch, hơi thở thì cái được cái mất, và lưng thì đổ mồ hôi ròng ròng. Ngày nào tôi cũng sẽ phải chịu đựng thế này ư? Thật đáng lo.
Chẳng biết tôi có thích nghi được với cái môi trường mới mẻ này không nữa.
Nhưng cứ lo lắng về những chuyện mình không biết sẽ chỉ mệt mỏi thêm thôi, nên tôi quyết định sẽ gác lại vấn đề này và sửa soạn để mở cửa quán. Phần chuẩn bị cho việc nấu ăn đã tăng lên và cần nhiều thời gian hơn.
Hồi trước quán này bán chỉ đủ duy trì thôi, nên có thể coi đây là một sự phiền hà đáng hoan nghênh. Vốn không quen làm quá nhiều những việc chuẩn bị trước, nên tôi cứ không thể vào guồng được. Tôi dừng lại sau khi áng chừng thế này là đủ cho hôm nay.
Cho chỗ rau xắt nhỏ vào tủ lạnh xong, tôi lấy ra nguyên liệu để làm bữa sáng, bắt đầu nấu ăn sau khi đã bày hết các thứ ra bếp.
Nói là vậy, nhưng tôi không có thời gian để nấu bữa sáng nên quyết định làm một thứ đơn giản thôi nhưng sành điệu - Crepe. Tôi sợ rằng nó quá sành điệu đối với tôi.
Crepe là một món ăn được giới trẻ ưa thích, ngon tuyệt, nguyên liệu đơn giản và cách làm thì rất dễ.
Tôi cho bột vào một cái tô lớn, trộn thêm chút đường, muối, rồi đập một quả trứng và đổ sữa tươi vào. Nguyên liệu ở thế giới này thường rất tươi ngon và tràn đầy hương vị. Trứng và sữa tươi tôi có thể mua ở ngay gần đây. Nếu như nguyên liệu mà tốt, thì ngay cả những món ăn đơn giản cũng có thể trở nên ngon tuyệt.
Bột cùng sữa hòa vào nhau thành một hỗn hợp đặc quánh. Tay tôi có thể cảm thấy sức nặng của bột khi trộn, và đây chính là lúc quyết định. Tôi tiếp tục rót thêm sữa vào từng chút một, cẩn thận khuấy bột cho đến khi không còn chút bột thô nào ở trong tô nữa.
Tôi đun chảy bơ trong chảo rồi rót vào tô. Sữa, trứng, bơ và bột đi cùng nhau thì không thể nào sai được.
Sau khi bột đã chuyển sang một màu vàng bắt mắt, tôi lấy một tấm vải phủ lên tô và để cho bột nghỉ một lúc, rồi đi xử lý tiếp các nguyên liệu khác.
Nhắc đến crepe là phải nói đến kem đánh bông, cơ mà ở thế giới này không hề dễ có được thứ đó.
Kem đánh bông thì làm từ kem tươi, vậy kem tươi đến từ đâu? Nó được làm ra bằng cách cho sữa vào một máy ly tâm. Vậy thế giới này có máy ly tâm không?
Nhờ có thứ công nghệ phi thường gọi là ma thuật, có lẽ nếu thử làm thì vẫn có thể chế ra được loại máy ấy. Nhưng nếu vậy thì đây sẽ không phải một bữa sáng đơn giản nữa mà là phát minh mang tính cách mạng rồi.
Tôi không thèm muốn ăn kem đến thế nên đành từ bỏ thôi.
Vậy thì việc tôi phải làm bây giờ ấy, là trông cậy vào những thứ nguyên liệu tươi ngon.
May mắn là có rất nhiều đồ ngọt được bày bán ở đây. Mê cung ở thành phố này là nguồn cung cấp vô hạn đường và trái cây.
Trái cây thì có loại ngọt như xoài chín, loại thì tươi mát như lê, vân vân. Tôi có thể mua chúng một cách dễ dàng ở các sạp hàng rồi chế biến thành mứt.
Sau khi cắt trái cây ra và bày lên khay, tôi cho mứt vào mấy cái đĩa nhỏ. Thế này thôi đã đủ khiến cho bữa sáng trông thật xa hoa.
Giờ thì chỉ còn phải làm bánh crepe nữa thôi. Tôi đun nóng chảo với lửa vừa, phết một lớp dầu mỏng lên, rồi múc một thìa hỗn hợp bột cho vào và trải đều ra. Bánh hơi dày so với chủ ý của tôi, và chẳng hề giống những chiếc crepe mỏng dính bán ở ngoài hàng. Tuy vậy, hương thơm đầy quyến rũ của nó vẫn đủ khiến ta ứa nước bọt.
Khi phần rìa bánh bắt đầu nổi bong bóng, tôi bèn dùng một chiếc muôi lách xuống bên dưới, lắc nhẹ tay để chắc chắn rằng bánh không bị dính vào chảo, rồi lật mặt sau lên. Chiếc bánh có màu rám vàng đẹp mắt, khiến tôi thấy khá là tự hào.
Sau khi đã chiên mặt còn lại được một lúc, tôi cho nó lên đĩa và bắt đầu làm cái tiếp theo.
Tôi tiếp tục làm thêm bánh. Bởi không quen tay, nên bánh cái dày cái mỏng khác nhau. Tôi cứ vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từ từ dùng hết chỗ bột.
Trong khi tôi đang chìm đắm trong sự thỏa mãn và ngắm nhìn chồng bánh thành phẩm, Linaria đã xuống nhà dưới từ lúc nào.
“Tớ ngửi thấy mùi quen quen, hóa ra là placenta[note46409] thật. Lần gần nhất tớ ăn cũng khá lâu rồi.”
“Placenta?”
Là cái gì vậy nhỉ?
Nghe cứ như ghép tên thú cưng với tên bánh ngọt nước ngoài lại với nhau vậy.
“Mọi người đều gọi nó là placenta, nhưng ở đây thì họ lại đọc là brakenta. Hồi còn ở cô nhi viện tớ hay làm cái này lắm.”
Đây là lần đầu tôi nghe thấy hai cái tên ấy. Hóa ra ở thế giới này cũng có bánh crepe, chỉ là nó được biết đến với cái tên khác, và có vẻ cũng khá là phổ biến.
Linaria mỉm cười vẻ hoài niệm, thích thú bước đến bên quầy bar.
“Mình sẽ ăn ở đâu? Chỗ bàn ăn à?”
Tôi mất một lúc để suy ngẫm câu hỏi ấy.
“Ừ, ra bàn ăn đi. Cậu bê giúp tớ cái này ra đó được không?”
“Tất nhiên rồi.”
Linaria mỗi tay nhặt một chiếc đĩa đặt trên bàn quầy bar.
Phải rồi, cô ấy không phải khách hàng nên không cần phải ăn ở quầy, còn tôi cũng không cần đứng ở đó chuẩn bị đồ uống.
Chúng tôi có thể ngồi xuống bàn ăn dùng bữa cùng nhau. Điều đó khiến tôi có một cảm xúc khó tả, cùng với đó là cảm giác hạnh phúc ấm áp trong lòng.
Tôi vừa ngâm nga một điệu nhạc, vừa chuẩn bị một tách cafe au lait cho Linaria.
Có người cùng ăn sáng thật là tuyệt. Dường như tôi đã quên mất cảm giác này từ lâu lắm rồi.
2
Mỗi người đều có những thói quen riêng.
Lúc nào đi ngủ, lúc nào ngủ dậy, bữa sáng giống mọi ngày, xỏ giày chân nào trước, thứ tự kỳ cọ khi đi tắm, vân vân.
Cơ thể ta rồi sẽ thích nghi với thói quen từ lúc nào không hay. Thật may mắn, có những người đã tạo được thói quen ghé thăm cái quán này.
Ví dụ như một mạo hiểm giả trẻ luôn tạt qua ăn nhẹ buổi sáng trước khi xuống Mê cung.
Chị gái tộc tiên luôn mang theo một cuốn sách dày.
Ông người lùn già hay trải một tấm vải ra bàn, đặt lên những viên quặng và ngồi săm soi chúng.
Đó là những vị khách quen luôn dành một khoảng thời gian nhất định ở đây.
Tôi cũng có một vài thói quen nhỏ để thích nghi với giờ giấc của họ. Ví dụ, tôi biết vị khách này sắp sửa tới nên tôi sẽ chuẩn bị món này, kiểu như vậy. Đó là một cái dịch vụ nho nhỏ mà chỉ có thể tồn tại do tôi chẳng có nhiều khách hàng.
Tuy nhiên, dạo gần đây tôi đã không thể làm thế nữa.
Tôi biết được lý do cho điều ấy qua già Gol. Khách du lịch đang đổ về đây để chờ xem màn trình diễn của các Danh ca, và họ cũng có ghé thăm quán tôi nữa.
Nhờ có họ, dạo này tôi vô cùng bận rộn.
Khách du lịch là những kẻ tò mò. Tôi có thể hiểu ham muốn được trải nghiệm những thứ độc đáo của họ, khi mà họ đã phải vượt đường xa tới đây.
Tuy vậy, tôi chưa bao giờ nghĩ cái quán của mình lại được xếp vào hàng độc đáo.
Từ quan điểm của người ở thế giới này, đồ ăn và cà phê tôi làm sẽ bị coi là kỳ quặc. Thông thường, người ta sẽ ngần ngại bước vào bởi nơi này quá kỳ lạ, nhưng giờ thái độ của khách hàng đã thay đổi 180 độ.
Đến một nơi mà họ hiếm khi ghé qua, nên khách du lịch có thái độ rất cởi mở trước một thành phố độc đáo được xây dựng dựa trên sự tồn tại của Mê cung.
Chỉ bằng cách đặt mình vào môi trường mới đó là thành phố Mê cung, họ đã phá bỏ được thói quen tồn tại suốt nhiều năm của mình.
Cùng với sự kiện lớn sắp sửa diễn ra là buổi biểu diễn của các Danh ca, khách du lịch trở nên háo hức hơn với việc khám phá thành phố. Nhiều người trong số họ trông thấy quán tôi khi đang đi trên phố chính, bèn ghé vào xem thử với một lòng đầy hiếu kỳ.
Đây quả là dịp đáng ăn mừng, bởi tôi có cơ hội để quảng bá tới nhiều người về sự quyến rũ của cà phê. Nhưng tiếc thay, do chỉ có một mình làm việc, tôi bị choáng ngợp trước lượng khách đông hơn dự tính ấy.
“Chủ quán, cho tôi cái Cà phê Đá này đi! Hơi đắng, nhưng mà ngon phết.”
“Bên ngoài nóng quá, nên uống đồ lạnh là sướng nhất.”
“Công nhận, thằng cu nhà tôi cứ kêu sao trời nóng thế…”
“Anh giai ơi, cái sandwich ép nướng của tớ xong chưa thế?”
“Xin chào, quán còn chỗ cho hai người bọn tôi không ạ?”
“Tính tiền em ơi…”
“Ôi cha, chỗ này này trông hay thật đấy, không biết là cửa hàng gì nhỉ? Quán bar à?”
“Đây là một quán cà phê, Jed bảo tôi nên đến xem thử.”
Quán trở nên đông đúc và ồn ào, làm tôi vô cùng vất vả.
Mỗi ngày lại có nhiều khách hơn. Khối lượng công việc từ gọi món đến nấu nướng và tính tiền cứ càng lúc càng tăng khiến tôi kiệt sức.
Nơi này từng là quán bar và khá là rộng rãi, nên tuy có nhiều khách nhưng vẫn còn chỗ trống.
Chỗ thì còn, nhưng tôi chỉ có hai tay và một cái bình pha cà phê thôi. Khi cảm thấy không thể phục vụ thêm khách, tôi sẽ phải từ chối những người tới sau. Mặc dù vậy, có những người lựa chọn xếp hàng chờ đợi ở ngoài cửa. Và thế là, mặc dù không trong dự tính, nhưng quán tôi đã có được cái danh dự là một nơi mà khách phải xếp hàng ra tận ngoài đường.
Nhưng tôi chẳng hề vui vẻ gì với điều ấy, trong đầu lúc nào cũng lởn vởn câu ‘bận đến chết mất thôi.’
“Cho tôi gọi món với.”
Giọng nói cất lên từ một trong các bàn, nhưng quán quá ồn ào nên tôi chẳng biết đó là bàn nào, và tay tôi thì đang ôm đầy những đĩa thức ăn mới làm nên không thể tới chỗ họ được. Tôi cảm thấy muốn khóc.
Đúng lúc ấy, một cái bóng đỏ rực bước ngang qua quán tới thẳng chỗ ngồi ở phía sau.
“Vâng ạ, ừm, anh chị gọi đồ gì ạ?”
Đó là Linaria. Cô ấy đã cởi bỏ áo khoác đồng phục, chỉ mặc chiếc blouse trắng và tay cầm theo một cuốn sổ nhỏ.
Cổ viết món khách gọi vào sổ, cúi đầu, rồi bước tới chỗ tôi trong khi tôi đứng đực ra một chỗ.
“Cầm lấy này, họ gọi một set ăn Sandwich ép nướng với Salad, và một Cà phê Đá.”
Linaria nói và đưa tôi tờ giấy. Khi thấy tay tôi đang bận, cổ gấp nó lại và nhét vào trong túi tạp dề của tôi. Không thể phản ứng được gì, tôi cứ thế nhìn chằm chằm cô ấy.
“... Sao?”
“Không, chỉ là…”
Từ ngữ mắc kẹt nơi cổ họng, tôi cảm tưởng nó sẽ bỏ qua đường miệng và phun ra từ mắt tôi.
“Tại cậu đang bận, nên là, ừm, tớ có thể giúp những việc đơn giản.”
“À, ừ, phải ha.”
“Cái này thì sao? Của bàn nào vậy?”
Vừa nói, Linaria vừa cúi xuống một chút và cẩn thận nhấc mấy cái đĩa ra khỏi tay tôi.
“Hai người ở đằng kia…”
“Rồi rõ rồi. Để tớ mang ra cho.”
Linaria cười và mang đồ đến bàn cho khách. Tôi đứng đó thẫn thờ nhìn theo cô ấy.
“Kiếm được cô nàng khá phết nhỉ, anh giai.”
Một ông già tai thú ngồi ở quầy bar nói, tôi bèn gật đầu.
“Con sư tử già nhà tớ hồi xưa cũng hiền lành như thế, nhưng giờ thì ghê gớm lắm. Anh giai cẩn thận đấy nhé.”
Tôi lại gật đầu.
“Mà nhân tiện, cái sandwich ép nướng của tớ xong chưa?”
Đám đông đã thưa bớt sau buổi trưa. Vẫn còn một vài nhóm khách trong quán, nhưng họ không thường xuyên gọi thêm đồ và chỉ ngồi thư giãn tận hưởng bầu không khí.
“Phù, mệt quá. Phục vụ khách hàng vất vả thật.”
Linaria ngồi xuống một chiếc ghế và nói, hai tay buông thõng.
“Cảm ơn nhé, cậu cứu tớ một bàn thua đấy.”
“Tớ chỉ đền đáp lại ơn cậu cho tớ ở đây thôi, đừng bận tâm.” Cổ xua tay rồi nói tiếp, “Nhưng mà đúng là nhiều khách thật nhỉ.”
“Ừ.” Tôi gật đầu. “Nghĩ đến tương lai làm tớ thấy không ổn cho lắm.”
“Tại sao? Có nhiều khách không tốt à?”
“Tớ cũng vui vì có nhiều khách, nhưng mà quán lại trở thành một nhà hàng mất rồi.”
“Ừ, đúng thật.”
Doanh số đã tăng lên tỷ lệ thuận với mức độ bận bịu của tôi. Doanh thu ngày hôm nay lập kỷ lục cao nhất trong lịch sử quán. Tuy nhiên, tôi khó có thể gọi nơi này là một quán cà phê được nữa.
“Điều đó tệ lắm sao?”
Tôi bỗng chẳng biết nói sao khi thấy ánh mắt chân thành, thẳng thắn của Linaria.
Điều đó tệ lắm sao?
Quán vốn luôn vắng vẻ. Tôi thường cẩn thận pha cà phê cho mấy vị khách ít ỏi của mình, nấu vài món ăn nhẹ rồi tám chuyện cùng họ. Đối với tôi, đó là cuộc sống thường ngày mà tôi quen thuộc.
Đó chỉ là hệ quả của việc khách hàng ở đây không hề biết tới khái niệm cà phê hay quán cà phê, chứ không phải chủ ý của tôi.
Trước tôi vẫn thường cầu nguyện cho việc kinh doanh tốt lên, lo sợ cuốn sổ thu chi sẽ chỉ toàn màu đỏ.
Phải chăng tôi chỉ đang bối rối trước sự gia tăng đột biến khách hàng thôi? Chẳng phải có nhiều khách thì càng tốt sao? Đúng là tôi có mệt hơn thật, nhưng sẽ là nói dối nếu bảo rằng tôi không cảm thấy có chút gì thỏa mãn.
“Đó có phải là điều đáng để cậu lo nghĩ không? Dù sao cũng đâu thể đuổi khách đi được, nên mình cứ làm những gì phải làm là được thôi mà, phải không?
Linaria thản nhiên nói.
“Ừ, cậu nói đúng.”
Tôi gật đầu đồng ý.
Từ giờ cho tới khi các Danh ca tới, lượng người đổ về thành phố này sẽ còn nhiều hơn nữa, kéo theo số khách của quán tôi cũng tăng lên. Điều tôi nên suy nghĩ bây giờ là làm sao để tiếp nhận tất cả những khách hàng này và phục vụ họ như thế nào.
Nếu đã vậy thì…
“Linaria này, cậu tiếp tục giúp tớ được không? Tất nhiên, tớ sẽ trả lương cho cậu.” Tôi chắp hai tay lại cầu xin. Quán chỉ có mình tôi làm thì không xuể, và cũng chẳng thể tìm được nhân viên ngay bây giờ.
“... Tớ không thể giúp cậu cả ngày đâu.”
“Dĩ nhiên, chỉ cần những lúc đông khách thôi.”
“Nếu vậy thì được.”
Linaria hơi bĩu môi và nói.
“Chuyện lương lậu để sau đi, cậu cho tớ cái gì ăn được không? Tớ đói lắm rồi.”
Nói mới nhớ, tôi vẫn chưa chuẩn bị bữa trưa, bèn vội vàng chạy vào kho lấy nguyên liệu.
Thật tuyệt là Linaria đã đồng ý giúp đỡ.
Tôi không khỏi nhe răng cười trong khi lục lọi cái tủ lạnh. Nếu như có một chiếc gương lúc này, hẳn tôi sẽ thấy cái mặt mình trông ngố lắm đây.
Kể từ buổi tối hôm ấy, Linaria đã chính thức trở thành một nhân viên của quán.
Chúng tôi dùng buổi chiều hôm đó để bàn nhau xem nhận yêu cầu của khách như nào, rồi đánh số từng bàn để dễ xác định hơn.
Linaria hiểu mọi thứ ngay lập tức, cô ấy cực kỳ thông minh, thảo nào là học sinh diện học bổng.
Cổ vốn không quen với việc luôn giữ thái độ thân thiện của nhân viên ngành dịch vụ, nhưng tôi không phàn nàn gì chuyện đó cả. Bởi dù sao đi nữa, người chưa có kinh nghiệm ngày đầu đi làm cũng khó có thể tiếp khách với nụ cười luôn nở trên môi.
Việc kinh doanh vào giờ ăn tối cũng tốt đến bất ngờ. Có những khách đến lúc chiều, giờ quay lại cùng với bạn bè hoặc người thân.
Khi có nhiều khách như thế, kiểu gì cũng có vấn đề xảy ra.
Ví dụ, mặc dù tôi đã nói nhiều lần, nhưng xin nhắc lại đây là một quán cà phê, dĩ nhiên sẽ không phục vụ đồ uống có cồn.
Tuy nhiên, có những người ở thế giới này uống bia rượu thay cho nước, và uống rượu trong khi ăn là chuyện hết sức bình thường. Bởi vì có cái phong tục ấy, những vị khách lần đầu đến đây sẽ thấy một quán ăn mà không bán rượu như này thật kỳ lạ.
Tôi đã được hỏi rất nhiều lần rằng ‘Quán này không có rượu ư?’, và cứ mỗi lần như thế là tôi lại phải xin lỗi.
Thêm nữa, nguyên liệu trong kho hết nhanh hơn dự tính, thế là bọn tôi đành phải từ chối phục vụ những khách vào sau.
Vấn đề không phải là do có quá nhiều khách, mà chỉ là tôi đã không dự trữ đủ nguyên liệu thôi. Tôi có mua nhiều đồ ăn hơn so với mấy ngày trước, nhưng mà lượng khách tới hôm nay lại đông hơn dự định.
Được nửa buổi tối thì tôi quay tấm biển hiệu bên ngoài thành “Đóng cửa” để không có thêm khách vào quán nữa.
Sau khi tiễn vị khách cuối cùng ra về, cơ thể tôi bỗng trở nên nặng như chì, cơn mệt mỏi dồn dập chiếm lấy toàn thân.
Tôi đổ gục xuống một trong mấy chiếc ghế trước quầy bar, còn Linaria thì không nghỉ mà bắt đầu dọn dẹp bát đĩa trên bàn.
Vào giờ cao điểm như vừa rồi, chúng tôi không thể nào xử lý hết mọi thứ được. Bởi vậy mà dao nĩa nằm la liệt trên bàn, đĩa bẩn chồng chất trong bồn rửa, và sàn nhà thì phủ kín những vết bám cùng đất cát.
Tôi quan sát một vòng và thở dài.
Rồi cố ép cơ thể mỏi mệt của mình đứng dậy.
“Sao cái quán này rộng thế không biết.”
“Cậu đang nói gì đấy? Mau lên, ra đây dọn dẹp đi.”
Tôi chẳng còn tí sức nào để mà đi nữa, nhưng Linaria thì trông chẳng có vẻ gì là mệt, vẫn chạy lăng xăng xung quanh.
Vào giờ mở quán cô ấy cũng chạy như thế, chẳng hiểu cổ lấy đâu ra nhiều sức đến vậy nhỉ?
“... Cậu không mệt à?”
“Tất nhiên là có, nhưng mà thế này thì chưa thấm vào đâu so với luyện tập trong Mê cung.”
Ra vậy, sức khỏe mà cô ấy trui rèn qua việc thám hiểm Mê cung và chiến đấu với quái vật đã trở nên hữu dụng ở đây, quả là đáng kinh ngạc. Cơ mà tôi thì chẳng còn tí năng lượng nào trong người và đã tới giới hạn rồi.
“Cậu muốn nghỉ một lúc không?”
Tôi hỏi, nửa van xin. Đây là lần đầu tiên tôi nấu ăn liên tục trong khoảng thời gian dài như vậy, cả cơ thể lúc này nặng trịch như chì.
“Cậu cứ nghỉ trước đi, để tớ dọn cho.”
Linaria thản nhiên nói và bắt đầu lau bàn.
Ước gì tôi có gan chấp nhận lời đề nghị của cô ấy, nhưng tôi là một tên hèn nhát và không dám để Linaria một mình làm việc trong khi tôi nghỉ ngơi.
Tôi không thể nào hành xử như thể mình là chủ của nơi này, là tai to mặt lớn ở đây được, nên bèn đứng dậy tự nhủ rằng mình sẽ noi gương Linaria chăm chỉ làm việc… và rồi bất động.
Tôi không thể rời mắt khỏi cái mình vừa mới nhìn thấy.
Có một người đàn ông bên ngoài cửa sổ.
Bàn tay và khuôn mặt ông ta dán chặt lên cửa kính, căng mắt ra nhìn vào bên trong quán.
Tôi đã chắc mẩm ông ta không phải một kẻ đáng ngờ nào hết…
… mà là một con quỷ.
Đó chắc chắn là quỷ dữ rồi.
Ôi không, phải làm sao bây giờ?
“Gì vậy trời…”
Linaria không hiểu tại sao tôi cứ đứng đó như trời trồng, bèn quay mặt ra hướng tôi đang nhìn. Khi trông thấy cái thứ đó, cổ liền lắp bắp nói.
“Là…”
Tôi chầm chậm nhìn sang Linaria.
Cô ấy có vẻ kinh ngạc trước con ma kia, miệng há hốc ra. Thế rồi, cổ nở một nụ cười rạng rỡ. Cười ư?
“Giám đốc!”
Giọng cô ấy thật hạnh phúc, nghe chẳng giống một người đang nhìn thấy ác quỷ gì cả.
Linaria vội vàng lao ra khỏi quán, ngay sau đó kéo một người đàn ông vào bên trong. Môi cổ toét đến tận mang tai, nhưng người mà cổ gọi là giám đốc ấy thì chỉ cười gượng.
“Xin giới thiệu với cậu, đây là giám đốc của Cô nhi viện nơi tớ sống hồi trước.”
“Ổng không phải một con quỷ ư?”
Tôi không nhịn nổi bèn buột miệng, Linaria liền hỏi lại với vẻ mặt khó hiểu.
“Quỷ là cái gì? Trông thế này thôi, nhưng ông là một cha xứ tuyệt vời đấy.”
“Đừng có bình luận về ngoại hình của ta như thế chứ.”
Vị giám đốc bẽn lẽn cười và nói.
“Rất vui được gặp cậu, xin lỗi nếu ta có làm cậu sợ nhé. Ta đang đi qua thì trông thấy một gương mặt quen nên bèn nhòm vào xem.”
Giám đốc cúi đầu với tôi, giọng điệu và thái độ của ông rất lịch sự. Tôi liền vội vàng đáp lễ.
“Ông quá lời rồi. Ừm, cháu là Yuu, bạn của Linaria ạ. Học viện đang nghỉ hè, nên cháu có nhờ bạn ấy giúp đỡ việc trong quán.”
“Ồ, ra là vậy hả? Thế Linaria làm việc chăm chỉ chứ? Hồi xưa nó là đứa bướng bỉnh lắm.”
“Vâng, bạn ấy làm việc rất tốt. Nhưng mà vẫn bướng ông ạ.”
Ta có thể bắt được ấn tượng đầu tiên về người khác chỉ trong vài giây sau khi gặp gỡ, và phần nào đoán được tính cách của người đó trong vòng 30 giây. Tôi có cảm giác mình và ông giám đốc hẳn phải có điểm gì đó giống nhau.
“Này, đừng có nói chuyện đó ngay trước mặt tớ chứ?”
Linaria khoanh tay lại phàn nàn.
“... Hồi trước nó cũng hay giáo huấn ta như thế này này.”
Ông giám đốc ghé miệng lại gần tôi và hạ thấp giọng.
“Cháu cũng thế.”
Tôi hạ giọng đáp lại. Cả hai nhìn nhau, cùng mỉm cười.
Tôi nghe nói Linaria bị chia cắt với cha mẹ khi còn nhỏ, nên ông giám đốc hẳn phải giống như một người cha đối với cô ấy.
“... Gặp ông con rất vui, nhưng lại có cảm giác sắp có thêm nhiều thứ phải lo.”
Linaria thở dài nói.
“Thế, ông đến thành phố này có việc gì vậy? Đi từ cô nhi viện tới đây cũng xa lắm mà.”
Nghe Linaria hỏi, ông giám đốc đưa tay lên gãi đầu, miệng cười khổ.
“Ờm, thực ra ta lên đây là vì chuyện kinh phí hoạt động của cô nhi viện.”
“... Lại hết rồi hả ông?”
“Ahaha… Kể cũng ngại thật.”
Đôi lông mày Linaria ỉu xìu.
Cổ có nói từ ‘lại’, nên hẳn là tình hình tài chính của cô nhi viện trong quá khứ cũng không khá khẩm cho lắm.
“Kinh phí hoạt động do một bên khác trả à?”
Linaria trả lời câu hỏi của tôi.
“Lẽ ra thì sẽ do nhà thờ chi trả, nhưng trường hợp giám đốc thì có hơi…”
“Hơi gì cơ?”
Mắt cô ấy lảng đi, lưỡng lự không muốn nói.
“Nói đơn giản, thì là do ta muốn né chuyện đấu đá nội bộ. Quan hệ giữa ta và phe phái lớn nhất của nhà thờ không được tốt cho lắm, nên thường không được hỗ trợ tài chính đầy đủ.”
Ông giám đốc bình thản nói.
Tôi thấy người đang đứng trước mặt mình đây không hề giống kiểu người sẽ tham gia vào chuyện tranh giành quyền lực. Ông có ánh mắt hiền lành và tạo cho người ta một ấn tượng vui vẻ thoải mái, và hiển nhiên là một người tốt. Tuy vậy, vô số nếp nhăn trên khóe mắt và miệng đã nói lên những khó khăn vất vả ông đã phải trải qua.
“Thế nên là, ta vừa đến thủ đô để nhờ người quen giới thiệu ta với một vài quý tộc, xong rồi xin họ quyên góp.”
Linaria nhún vai nói.
“Nhìn cũng biết là ông không xin được.”
“Ngại ghê.”
Vị giám đốc cúi đầu thất vọng, dáng vẻ ông toát lên sự buồn rầu.
“Ta đã không thể đối đáp tốt với đám quý tộc trong các bữa tiệc kêu gọi quyên góp…”
Hóa ra ổng phải đi dự tiệc với quý tộc để kiếm tiền quyên góp. Quản lý một cô nhi viện đúng là khó thật.
“Thế ông vẫn ổn chứ?”
Linaria dò hỏi.
Vị giám đốc cố nở nụ cười và nói.
“Không sao, hồi xưa ta cũng vượt qua ngon lành được mà, đừng lo. Ta có người quen ở thành phố này nữa, và họ cũng rất sẵn lòng lắng nghe, nên là vẫn chưa hết cách.”
Rõ ràng là ông chỉ đang cố ra vẻ như vậy. Ổng không muốn làm Linaria lo lắng, nên chúng tôi cũng chẳng nói gì thêm vì không muốn phụ lòng ông.
“Ừm, thời gian tới con sẽ ở cái quán này, nên ông cứ ghé qua chơi nhé.”
“Tất nhiên rồi, một phần lý do ta đến thành phố này là để gặp con mà. Cơ mà không ngờ là lại gặp ở đây chứ không phải ở trường.”
Ông giám đốc vẫy tay với tôi và nói. “Mà nói mới nhớ…”
Tôi thắc mắc không biết ông muốn bảo gì và lại gần, ông liền kéo tôi ra một góc.
“Cậu là Yuu, phải không? Là bạn trai của Linaria à?”
Trước câu hỏi đột ngột, tôi chỉ biết phát ra mấy âm thanh vô nghĩa như kiểu “Hả?”, “Hở?”.
“K-Không ạ.”
“Nhưng hai đứa đang sống thử còn gì?”
“Không phải thế đâu ạ. Tại ký túc xá gặp chuyện nên không thể ở được, nên cháu mới cho bạn ấy thuê một phòng trên tầng hai.”
Tôi giải thích ngắn gọn, ông giám đốc nghe xong liền nhe răng cười.
“Thế à, ta hiểu.”
Rồi ông đặt tay lên vai tôi và nói.
“Ta coi Linaria như con gái mình vậy, nên là mong cậu chăm sóc con bé thật tốt nhé.”
Ổng bóp vai tôi thật mạnh.
“D-Dĩ nhiên rồi ạ.”
Tôi toát cả mồ hôi lạnh, vai hơi đau.
“Nếu cậu mà làm Linaria khóc thì… Cậu hiểu mà, phải chứ? Mong Chúa châm chước cho ta.”
Tôi gật đầu rối rít, ông giám đốc liền nới lỏng tay và xoa lưng tôi.
“Cậu hiểu chuyện thế là tốt, hahaha.”
“Hai người làm cái gì vậy…”
“Không có gì, chuyện đàn ông ấy mà.”
Cái con người này… tính cách ông ta thay đổi chóng mặt khi chuyện dính dáng đến gia đình ổng. Đây không phải kiểu người mà tôi nên kết oán…
Tôi lặng lẽ thoái lui ra xa khỏi ông ta.
Sau khi Linaria tiễn vị giám đốc đi, cổ quay lại quán và ngồi xuống bên cạnh tôi trước quầy bar.
“Ông ấy tốt nhỉ.”
Nghe tôi nói vậy, Linaria mỉm cười như thể chính cổ là người được khen.
“Đúng vậy, ông ấy tốt lắm, ông đã phải chịu rất nhiều khó khăn vất vả mới duy trì được cô nhi viện. Lúc nào ông cũng tươi cười và quan tâm đến bọn tớ.”
Tôi chẳng cần phải hỏi cũng biết cô ấy kính trọng ông giám đốc cỡ nào.
“... Haiz, tớ muốn nhờ cậu việc này.”
“Việc gì vậy?”
Linaria hiếm khi nhờ vả cái gì, nên tôi có hơi ngạc nhiên.
“Tớ sẽ làm việc ở đây thật chăm chỉ để giúp cậu… nên là, cậu ứng trước tiền lương cho tớ được không?”
Cô ấy muốn tôi trả lương trước, và tôi nhận ra lý do vì sao.
“Cậu muốn đưa tiền cho giám đốc trước khi ông quay về, đúng không?”
Linaria gật đầu.
“Trước khi tớ được nhận vào học viện, giám đốc bảo tớ là không cần phải lo gì cả, cứ tập trung làm điều tớ muốn thôi. Tớ đã nghe theo lời ông và học tập thật chăm chỉ… Nhưng mà, bây giờ tớ muốn làm những gì mình có thể để giúp ông.”
“Quả là một cô bé ngoan.”
“Hả?”
“Xin lỗi, đừng để ý.”
Tôi lấy tay che miệng sau khi vô tình nói ra suy nghĩ trong đầu.
Linaria là một cô gái tốt, sự chu đáo quan tâm tới mọi người của cô ấy mới sáng chói rực rỡ làm sao.
“Dĩ nhiên rồi.”
Gương mặt đã nhẹ nhõm hơn, Linaria cúi đầu với tôi.
“Cảm ơn cậu.”
“Không, cậu khách sáo rồi. Từ giờ mong được cậu giúp cho.”
“Không, câu đó là của tớ mới phải.”
Chúng tôi cúi đầu với nhau, và rồi ngẩng lên cùng một lúc. Cả hai không nén nổi bèn phì cười.
“Bọn mình đang làm cái gì không biết?”
“Ừ, thật luôn.”
Tiếng cười vang vọng trong quán cà phê giữa tối muộn.
3
Cho dù có bao nhiêu khách du lịch ở thành phố này đi nữa, sẽ chẳng mấy ai trong số họ ra ngoài vào sáng sớm. Sự đông đúc vào giờ ăn trưa và ăn tối ngày hôm qua cứ như một giấc mơ vậy, quán tôi đón chào ngày mới trong sự yên bình.
Linaria ăn sáng với một chiếc sandwich thịt nguội ép nướng như mọi khi, đang ngồi đọc một cuốn sách dày ở quầy bar. Trong quán cũng có vài vị khách vãng lai đang tận hưởng một bữa sáng nhẹ nhàng.
Tôi vừa phải ra chợ mua một lượng lớn thực phẩm. Thường thì cô bé giao hàng Shilulu sẽ mang tới cho tôi, nhưng mà nhìn đám đông ngày hôm qua, tôi biết lượng nguyên liệu như mọi khi là không đủ. Đây là lần đầu tiên tôi phải tự ước tính và ra chợ mua thêm đồ.
Một vị khách bước vào quán khi tôi đang tranh thủ gọt vỏ rau củ trong lúc khách vẫn còn thưa. Người đó có mái tóc dài màu bạc, đôi mắt tràn đầy sức sống và một vóc dáng thon thả, cao ráo. Cô khoác trên mình một bộ đồ hiệp sĩ sẫm màu.
“Xin chào, chị Albel, lâu lắm không thấy chị tới.”
“Cái nhiệm vụ thăm dò bị kéo dài một thời gian nên tôi giờ tôi mới qua được.”
Chị Albel có vẻ đẹp mê hồn, nhìn chị dễ khiến người ta tưởng nhầm chị là một người mẫu, nhưng thực ra chị là một mạo hiểm giả đang thách thức Mê cung.
“Vẫn như mọi khi chứ ạ?”
“Ừ, một tách cà phê chính tay chủ quán pha, nó là lý do để tôi làm việc chăm chỉ mỗi ngày đấy.”
Chị Albel tinh nghịch nháy mắt. Tôi biết chị chỉ nói vậy vì lịch sự thôi, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy vui.
“Dạo này chị bận lắm à?”
Tôi hỏi trong khi chuẩn bị bình syphon.
“Cậu có biết chuyện các Danh ca sắp sửa đến đây không?”
Tôi gật đầu.
“Hai Danh ca sẽ cùng biểu diễn trên sân khấu. Hoàng gia sẽ từ kinh đô tới đây, và người từ khắp vương quốc đang tụ hội về nơi này. Cậu nhìn thấy ngoài tường thành chưa? Chỗ ở tạm bợ đang được dựng lên ở đấy, tức là bên trong thành phố đã chật kín rồi.”
“Thế thì… kinh thật.”
Tôi chẳng thể tìm được cách nói hay hơn.
“Ừ, kinh lắm luôn. Hội mạo hiểm cũng gặp phiền toái khi đám đông này lớn chưa từng thấy, họ chắc sẽ không ngăn cản nổi nếu du khách xông vào trong mê cung. Khả năng là họ sẽ phải niêm phong hoàn toàn mê cung trong khoảng thời gian các danh ca ở đây.”
“Ra vậy. Thế là chị đã xuống mê cung trước khi người ta niêm phong lại à?”
“Đúng rồi. Có nhiều nơi đã phải tạm thời đóng cửa bởi vì không kham nổi lượng khách du lịch quá đông. Nếu như bọn tôi bị thương trong khi các bệnh viện chật kín khách du lịch thì chỉ có chết. Mạo hiểm giả rất nhạy cảm với sự thay đổi, họ ghét việc mọi thứ không giống như trước đây.”
Tôi đặt tách cà phê xuống trước mặt chị Albel đang cười khổ.
“Ôi, cái hương thơm này! Thèm mãi giờ mới được uống.”
Chị ghé mũi vào tách cà phê đang cầm, mi mắt khép lại và miệng nở nụ cười. Một cảm giác ấm áp dâng lên trong lồng ngực tôi khi thấy cà phê của mình đã khiến chị có được biểu cảm thư thái như vậy.
Chị Albel nhấp một ngụm, đôi lông mày nhíu lại và mắt nhắm nghiền. Đoạn, chị nới lỏng cơ miệng và thở ra một hơi ‘hà’ trông cực kỳ gợi cảm.
“Cái cảm giác này… giống như một phần trống rỗng nào đó trong cơ thể tôi được lấp đầy vậy. Có uống bao nhiêu cũng không đủ. Tuy tôi không uống rượu, nhưng có lẽ những người ham rượu cũng cảm thấy như thế này đây.”
“Nghe chị nói vậy, cả em và cà phê đều rất vui ạ.”
Tôi không khỏi cảm thấy lo rằng có khi chị đang mắc triệu chứng cai nghiện. Trong cà phê có chứa chất caffeine, và nếu hấp thụ nó quá nhiều thì sẽ có khả năng gây nghiện hoặc thậm chí tử vong. Tuy nhiên, lượng caffeine trong cà phê rất nhỏ, nên chắc là không có gì đáng lo trừ trường hợp uống thay nước… có lẽ vậy.
“Chủ quán, cho tôi cốc nữa đi.”
Nhưng rồi tôi không còn dám chắc điều đó khi thấy chị Albel uống vèo cái hết và xin thêm tách thứ hai.
Tuy vậy, nếu như chị ấy yêu cầu tôi với đôi mắt long lanh như một bé gái thế kia, làm sao tôi có thể từ chối chứ. Tôi liền đi pha tách cà phê thứ hai ngay lập tức.
“Mà nhân tiện, em nhớ chị bảo là không uống rượu. Là chị không uống được hay chỉ không muốn uống thôi?”
“À, tôi không uống được. Lúc say cảm giác như phát bệnh ấy.”
“Em bất ngờ đấy.”
Đối với tôi, chị Albel là mẫu hình phụ nữ trưởng thành, đáng tin cậy.
Trông chị cực kỳ hợp với cảnh ngồi trong một quán bar nhâm nhi ly cocktail sành điệu, hoặc là nốc ừng ực một ly rượu mạnh cũng rất hợp với hình ảnh của chị.
Chị Albel dường như đọc được suy nghĩ của tôi và phì cười.
“Người ta cứ hay bảo tôi là mạo hiểm giả kiểu gì mà lại không biết uống rượu. Nhưng mà tôi thừa hưởng cái này từ cha tôi, ổng cũng không uống được. Với cả tôi đã tìm được một thứ hay ho có thể thay thế được rượu rồi.”
Cầm lên tách cà phê thứ hai, chị mỉm cười.
“Tiếc là tôi không thể làm một cốc sau khi xong việc lúc tối muộn.”
Rồi chị nháy mắt với tôi vẻ đùa cợt, vô tình bắn một mũi tên xuyên thẳng tim tôi. Sao chị ấy đáng yêu và quyến rũ thế không biết.
“E hèm.”
Đúng lúc ấy, tôi nghe tiếng đằng hắng của ai đó ở gần mình. Tôi chợt nhận ra Linaria cũng đang ngồi ngay bên cạnh ở quầy bar, cảm giác như vừa bị nhắc nhở đừng có ngây cái mặt ra mà nhìn chị Albel vậy.
Lúc tôi đang vội vàng chỉnh đốn lại biểu cảm của mình thì chuông cửa reo. Tôi chưa kịp nhận ra có khách tới thì tiếng ồn đã tràn vào trước.
“Đây, ở đây này. Cửa hàng này có không khí rất tuyệt.”
“Ừ, cậu nói đúng. Trông hơi tồi tàn, nhưng không tệ tí nào. Martha đúng là rất thích những nơi như thế này nhỉ.”
“Tuyệt thật! Vừa mới đến đây chưa lâu mà chị đã tìm được chỗ hay ho như vậy.”
“Ồ, có gì đâu! Vẫn còn khá lâu nữa thì các Danh ca mới tới, nên trong lúc chờ mà không làm gì thì chán chết, đúng không? Thế là tớ mới đi xung quanh khám phá.”
Một nhóm các quý bà đi vào quán, vừa chuyện trò luôn miệng. Tôi cứ nghĩ chỉ có họ thôi, nhưng rồi cửa lại mở và thêm tám người nữa bước vào.
Quán đang yên tĩnh bỗng trở nên thật ồn ào. Nếu như đây mà là một chiếc TV, tôi sẽ vặn nhỏ âm lượng xuống, cơ mà đây là thực tế nên điều đó bất khả thi. Trông thấy đám đông, Linaria liền đứng dậy và mặc vào chiếc tạp dề đen đang treo trên lưng ghế. Vẫn còn khá lâu nữa mới tới buổi trưa, nhưng có vẻ Linaria vẫn sẵn lòng giúp đỡ. Tôi bèn chắp hai tay lại bày tỏ sự biết ơn với cô ấy.
“... Danh ca đúng là nổi tiếng thật nhỉ.”
Chị Albel liếc mắt nhìn nhóm các quý bà và nói.
“Công nhận. Dạo này quán em đông khách lắm luôn.”
“Cửa hàng nào cũng như thế hết đấy. Không nhân dịp này mà tung hết sức ra kiếm lời thì thật không đáng gọi là doanh nhân.”
Chị uống hết tách cà phê, rồi lấy ra một vật trông như chiếc ví.
“Eh? Chị đã đi rồi á?”
Thường thì chị ấy phải ngồi lâu hơn nhiều.
“Ừ, tôi có chút việc không vắng mặt được.”
Như thể vừa mới nghĩ ra lý do ấy, chị để tiền lên bàn và đứng dậy.
“Cà phê ngon lắm, cảm ơn cậu đã tiếp đãi.”
“À, vâng ạ, cảm ơn chị. Hôm nào lại qua nhé.”
“Tất nhiên rồi.”
Chị Albel nhanh chóng rời khỏi quán.
Tiếng cười vỡ ra như núi lở. Tôi quay sang nhóm mấy quý bà đang cười ầm ĩ, chắc là ai đó vừa nói gì hài hước.
Linaria bước lại gần và đưa tôi danh sách gọi món.
“Đây, món họ gọi này.”
Tuy không đọc được chữ của thế giới này, nhưng tôi nhớ mặt chữ tên các món ăn của quán. Nó giống kiểu ghi nhớ hình ảnh hơn là hiểu nội dung.
Danh sách gọi món phủ kín tờ giấy, tôi mất một lúc để giải mã và xác nhận lại tất cả chúng.
“Sao vậy?”
Nghe Linaria hỏi, tôi bèn lắc đầu và nói.
“Không có gì, tớ đi làm ngay đây.”
Họ gọi các món ăn nhẹ và nước trái cây, không một ai gọi cà phê cả.
_ _ _
Lúc sáng tôi đã phải phá lệ đi mua nguyên liệu bổ sung, thế mà vẫn hết sạch trước cả giờ đóng cửa và phải nghỉ bán sớm hơn bình thường.
“Hôm nay cũng đông thật.”
Linaria kéo mái tóc đuôi ngựa của mình ra trước ngực, cử động đầy nữ tính của cô ấy khiến tim tôi loạn nhịp. Tôi bèn gật đầu.
“Hình như là do khách đến đây hôm trước đã quảng cáo quán mình với bạn bè của họ.”
Trước đây, khách hàng thường chỉ đến một mình hoặc theo cặp, nhưng hôm nay có nhiều những nhóm ba người hoặc đông hơn.
“Việc nấu nướng không vấn đề gì chứ?”
Linaria lấy tay chống cằm trên quầy bar và hỏi tôi.
“Hmm.”
Quả là một câu hỏi khó.
Cho đến buổi chiều thì vẫn ổn, nhưng khách đến vào giờ ăn tối lại thường gọi những món chính. Có vẻ họ coi nơi này như một nhà hàng.
Điều đó tôi cũng dự đoán trước rồi, bởi thế giới này làm gì có khái niệm quán cà phê. Đây chỉ là một quán ăn có phục vụ cà phê và các món ăn nhẹ thôi.
Đối với khách hàng, họ chỉ đến đây khi nào thấy đói và gọi những món ăn có cái tên khiến họ tò mò.
Bởi vậy, tôi không thể phàn nàn về việc khách chỉ gọi mỗi đồ ăn được. Thậm chí tôi có lẽ nên tính chuyện thay đổi hoạt động buổi tối thành bán những món chính cùng rượu để kiếm nhiều tiền hơn.
Tuy nhiên, tôi là đầu bếp duy nhất của quán, đồng thời phải làm cả đồ uống nữa. Linaria thì lo việc gọi món, phục vụ bàn, tính tiền và cả dọn dẹp. Giờ bọn tôi lại đang gặp vấn đề nghiêm trọng đó là thiếu người.
“Thế này không ổn.”
“Công nhận.”
Hai đứa tôi nhìn nhau cùng cười khổ sở.
Hôm nay quán cũng rơi vào tình trạng tắc nghẽn. Tuy không có nhiều món và việc chuẩn bị trước đã được làm rất tốt, nhưng mà vẫn có giới hạn cho khối lượng công việc tôi có thể làm một mình.
May mắn thay, khách hàng đang hưng phấn vì không khí lễ hội nên đã không phàn nàn gì việc phải chờ đợi lâu, nhưng mà chúng tôi không thể cứ tiếp diễn như này được.
“Mình nên làm gì bây giờ?”
“Đành chịu thôi, tìm một người biết nấu ăn đâu có dễ.”
Mới như bọn tôi mà đã bận rộn thế này, các nhà hàng thực thụ hẳn phải còn kinh khủng hơn. Tất cả các cửa hàng đều thiếu người làm.
“Tớ chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình phải lo nghĩ chuyện này.”
“Nhưng cũng là chuyện đáng mừng mà, nhỉ? Chẳng phải có nhiều khách là chuyện tốt sao? Chỗ này bình thường toàn vắng tanh.”
Linaria mỉm cười tinh nghịch trêu tôi.
“Tớ vui mà.”
Tôi tự hỏi đã có bao giờ quán mình đông khách được như thế này chưa. Không, tôi không nghĩ là có. Doanh thu dạo gần đây rất là tốt.
“Chỉ có điều…”
“Sao, có gì khiến cậu không vui à?”
“Không phải tớ không vui, chỉ là như này thật chẳng giống tớ đang mở quán cà phê tí nào.”
“Thì thời điểm này nó như vậy nên đành chịu thôi. Khách du lịch chỉ có thể thỏa mãn bằng việc ăn những món độc lạ ở những nơi độc lạ mà.”
Linaria xua tay nói. Tôi không khỏi mỉm cười trước bình luận thẳng thắn ấy.
Cổ nói hoàn toàn chính xác.
Khách hàng đến đây vì đồ ăn của tôi, thấy rất ngon và rút ví ra trả tiền. Tuy chỉ bắt nguồn từ sự hiếu kỳ thôi, nhưng điều đó vẫn khiến tôi cảm thấy vui.
Giống như là giá trị của tôi đã được người ta công nhận vậy, một cảm giác không tệ tí nào.
“Mà nhân tiện, tối nay mình ăn gì nhỉ? Muốn tớ đi mua cái gì đó không?”
Tôi chỉ nhận ra tình trạng cái dạ dày của mình sau khi nghe Linaria nói. Tôi đang đói cồn cào.
“Thực ra, tớ có để dành nguyên liệu cho bữa tối của bọn mình rồi.”
“Đúng là Yuu có khác.”
Linaria vỗ tay nói, trong khi tôi ưỡn ngực tự hào trước khi lấy nguyên liệu nấu bữa tối ra khỏi tủ lạnh.
Bữa tối hôm nay sẽ là cá. Tuy nhiên, đó không phải nguyên một con cá mà chỉ một phần ba thôi. Mặc dù vậy, miếng cá vẫn to đến nỗi tôi phải cầm bằng cả hai tay.
Đôi mắt sắc bén của Linaria đã trông thấy từ phía bên kia quầy bar, liền reo lên mừng rỡ.
“Là cá solomos kìa! Không phải nó đắt lắm à?”
“Sáng nay lúc tớ đi mua đồ thì có một bác gái bán cá gọi vào, bác ấy là khách quen ở quán này. Bác ấy giảm giá cho tớ tại vì đây là loại cá hiếm.”
Cho dù là ở thế giới nào đi nữa, các bà các cô đều tốt bụng.
“Cá này không phải thứ dễ mua được chỉ vì người ta là khách quen đâu…”
“Bác ấy bảo tớ trông giống con trai bác ấy hồi xưa.”
Thịt cá solomos có màu hồng tuyệt đẹp như cánh hoa anh đào vậy. Theo như lời bác bán cá, đây là loại cá cao cấp chỉ có thể đánh bắt được trong một khoảng thời gian ngắn đầu mùa hè.
“Cậu không cho nó vào thực đơn của quán à?”
Tôi lắc đầu.
“Xử lý cá rất là nhiêu khê và đòi hỏi nhiều công đoạn chuẩn bị, lại còn phải để ý đến vệ sinh nữa. Nấu ăn với cá cũng cần kỹ năng để có thể tẩy hết được mùi tanh.”
Nói chung là không đáng để mạo hiểm làm hương thơm của cà phê bị đánh bay bởi mùi tanh của cá. Thêm nữa, nếu tôi phục vụ thêm cá thì nơi này sẽ thực sự trở thành một nhà hàng mất.
“Ra vậy, thế cậu có nấu được nó không?”
“Được, nhưng làm gì đó đơn giản thôi.”
Tôi có thể thái thành lát mỏng để làm sashimi, hoặc là chiên giòn nó lên, hay gì đó kiểu như vậy. Tuy nhiên, ở thế giới này không có văn hóa ăn cá sống.
Thực ra tôi nghĩ thành phố này không có văn hóa ăn cá luôn, bởi vì kỹ thuật vận chuyển cá đến những nơi xa bằng phép thuật chỉ mới được phát triển gần đây.
“Về chuyện bữa tối dành cho nhân viên hôm nay, tôi sẽ làm món cá solomos theo phương pháp meunière[note46410].”
Tôi tuyên bố, Linaria liền giơ tay lên trong khi tay còn lại vẫn chống cằm.
“Thưa giáo sư, em có câu hỏi ạ.”
“Trò có ý kiến gì hả, Linaria?”
“Vâng ạ. Thưa giáo sư, em không biết kỹ thuật nấu ăn meunière là như thế nào ạ. Xin hãy chỉ cho em.”
“Được thôi, nghe cho kỹ này. Đầu tiên, ta cắt cá ra thành từng miếng dẹt, sau đó nêm gia vị với muối và tiêu.”
Tôi cắt cá ra thành bốn miếng rồi cho phần còn lại vào tủ lạnh.
“Tiếp theo là tẩm bột.”
“Nó hóa thành màu trắng kìa.”
“Phải trắng như thế mới được. Nhưng mà phải lắc cho tất cả bột dư rơi xuống, nếu không nó sẽ làm hỏng kết cấu của cá.”
Sau đó đun nóng dầu trong chảo lên với lửa vừa, rồi cho từng miếng cá vào.
“Chiên cho đến khi nó đổi màu vàng ruộm. Trong lúc chờ đợi thì chuẩn bị salad với bánh mì.”
“Để tớ, để tớ trông cá cho.”
Linaria ngắm nhìn những miếng cá đang được chiên trong chảo, trên mặt là một biểu cảm đầy háo hức. Với một người ham ăn như cô ấy, cá solomos hẳn là phải vô cùng cám dỗ.
Để Linaria trông chảo, tôi đi làm một món salad đơn giản và cắt bánh mì ra. Tuy có bỏ bớt vài công đoạn do đây chỉ là bữa ăn của nhân viên, nhưng tôi nghĩ sẽ ổn thôi.
Cảm thấy đã đến lúc thích hợp, tôi bèn lật mặt sau của cá lên, phơi bày ra một màu vàng đẹp mắt. Tôi dùng muôi ấn cá xuống chảo để làm mặt ngoài nó giòn hơn.
Một mùi hương nức mũi tỏa ra từ những miếng cá.
“Uwah… Thơm quá đi, làm tớ đói không chịu được…”
“Ừ nhỉ… Không hiểu sao mùi cá lại ngon thế chứ…”
Chúng tôi đã làm việc quần quật cả ngày nên đều đói bụng. Dạ dày tôi đang biểu tình dữ dội đòi thức ăn, nó sắp sửa kêu thành tiếng đến nơi rồi.
Linaria cứ chốc chốc lại liếc nhìn, hỏi xem cá đã được chưa.
Tôi nhìn chảo cá, vừa thực hành rèn tính kiên nhẫn.
Tôi muốn ăn nó ngay bây giờ cơ, nhưng sẽ thật tệ nếu vội vàng quá để rồi làm cá chưa chín hết. Dù nguyên liệu có tốt đến thế nào đi nữa, nếu tôi làm hỏng khâu kiểm soát nhiệt độ, tất cả sẽ đổ sông đổ bể.
Mặt bên trên đã chín tới hoàn hảo, nên mặt dưới sẽ không cần phải chiên quá lâu.
Linaria trông có vẻ không thể chờ đợi thêm được nữa. Tôi bèn tắt bếp, nghiêng chảo để làm dầu ăn đọng trên cá chảy hết sang một phía và chắt ra ngoài.
Linaria đứng bật dậy, tưởng rằng cá đã nấu xong rồi, nhưng mà bây giờ mới đến đoạn hay.
Tôi lấy dao xắt một miếng bơ trên thớt rồi cho vào chảo.
“Uwah!”
Một tiếng kêu thất thanh phát ra từ Linaria, nghe chẳng rõ là đang gào thét hay reo hò nữa. Tôi nhìn sang, thấy mặt cổ như đang muốn nói ‘Sao cậu có thể làm một điều kinh khủng như thế chứ?’
Tớ hoàn toàn hiểu cậu đang cảm thấy thế nào mà. Bơ là một thứ nguyên liệu đầy tội lỗi, bất kỳ ai cũng sẽ cảm thấy hối hận nếu ăn nó quá nhiều.
Nhưng không sao, bởi vì làm món meunière thì nó phải như vậy.
Lượng bơ hào phóng được cho vào món meunière sẽ tạo ra một hương vị mạnh mẽ, đậm đà, đủ sức khiến cho não bộ ta tê liệt.
Tôi cũng không muốn phạm phải tội ác này đâu, nhưng mà công thức nó thế nên chẳng còn cách nào khác. Tôi không sai, mà lỗi nằm ở người đã sáng tạo ra cái công thức này. Hay nói cách khác, meunière là một món ăn dùng nhiều bơ hợp pháp.
Tôi vặn nhỏ lửa và chờ cho bơ tan chảy. Cục bơ dần thu nhỏ lại, và bơ chảy ra thấm vào những miếng cá solomos vàng rụm.
Khi bơ đã tan chảy hoàn toàn, tôi tắt bếp và múc bơ phủ lên toàn bộ miếng cá. Sau đó, tôi bày cá ra đĩa và rưới chỗ bơ còn lại lên trên.
“Đã xong.”
Linaria mắt không rời đĩa cá tôi đặt trên bàn, miệng nuốt nước bọt.
“Không thể tin… cậu lại có thể nghĩ ra một món ăn đáng sợ như vậy… meunière thật đáng kinh ngạc.”
Nấu chảy một lượng lớn bơ rồi phủ lên miếng cá, phương pháp nấu ăn này dường như đã chiếm được trái tim của Linaria. Cổ cứ nhìn hai đĩa cá không rời mắt trong khi bê chúng ra bàn ăn.
Sau khi dọn dẹp qua loa, tôi đi ra bàn ăn và hai đứa cuối cùng đã có thể ăn tối.
Tuy nhiên, tôi cảm thấy có chút lo lắng. Tôi cứ nghĩ cá solomos cũng tương tự như cá hồi nên đã chọn làm món meunière, nhưng mà bởi đây là một thế giới khác, loại cá này có khả năng sẽ có vị giống trái cây, hoặc là sẽ cứng như thịt vậy. Nhưng dù sao thì không thử sẽ chẳng bao giờ biết.
Tôi chưa thọc dao nĩa của mình vào vì bận nghĩ đến mấy điều trên, và Linaria đã khai mào trước. Tôi bèn liếc sang thăm dò. Hai mắt cô ấy mở lớn, bàn tay giơ lên che cái miệng đang nhai liên hồi.
Thế rồi cổ nuốt xuống, quay sang tôi với một vẻ mặt cực kỳ hệ trọng.
“Từ giờ cho đến cuối đời, tớ sẽ chỉ ăn cá meunière thôi.”
Khuỷu tay tôi rớt khỏi mặt bàn. Tôi cảm thấy xấu hổ khi mình đã làm một biểu cảm tầm thường như vậy. Tại tôi lo quá mà, để rồi cảm thấy tất cả sự lo lắng của mình hóa ra vô ích sau khi nghe phản hồi hết sức trẻ con của Linaria.
“Ý cậu là nó rất ngon?”
Linaria vội vàng làm miếng thứ hai, gật đầu lia lịa với cái má phùng lên.
Cái cách cô ấy ăn thật là dễ thương.
Tôi rất hạnh phúc khi đồ ăn tôi nấu được người khác thích đến như vậy.
Lòng cảm thấy ấm áp, tôi cắt ra một miếng cá solomos meunière. Ở giữa là một màu hồng anh đào đậm sắc, nên là về khoản nhìn thì cũng vô cùng ngon mắt.
Tôi đưa nó lên miệng, cảm nhận hương thơm của bơ phảng phất trong khoang mũi, cùng chất béo đậm đà vị ngọt tiết ra nhảy múa nơi đầu lưỡi.
Tôi không thể nhịn được nữa bèn cắn xuống. Lớp vỏ bên ngoài tạo ra một âm thanh giòn rụm, thịt cá bên trong thì vừa mềm vừa mọng.
Mỗi khi tôi nhai một cái, nước thịt lại ứa ra tràn trề. Nước thịt dường như quá đậm vị, nhưng bơ đã khiến cho nó trở nên dễ chịu hơn.
Món này chắc chắn sẽ hỏng nếu như tôi dùng bơ bán trong siêu thị.
Chỉ có bơ ở thế giới này, vốn được làm ra từ nguyên liệu tươi ngon trong một môi trường không bị vấy bẩn bởi khoa học mới có thể bổ sung cho hương vị mạnh mẽ của cá solomos bằng sự dịu dàng của nó.
Tôi nhìn xuống đĩa, cái hương vị này ngon đến mức gần như phi thường.
“Cá solomos meunière… tớ không ngờ là nó lại ngon đến thế.”
Linaria đã bắt đầu ăn đến miếng cá thứ hai.
“Nếu như được ăn ngon thế này, tớ có thể ở đây mãi mãi luôn.”
Tôi liền ngẩng đầu lên sau khi nghe câu ấy.
Nhưng Linaria thì quá sung sướng mải mê ăn cá, chẳng hề để ý đến điều mình vừa nói.
Tôi nhăn nhó mỉm cười và lấy dĩa xiên miếng cá vừa cắt ra.
Tôi đã không thể nói với Linaria rằng tôi sẽ vui lòng nấu cá solomos meunière cho cô ấy mỗi ngày luôn[note46411].