Chương 1.4 - Thiếu nữ được thả ra chiến trường.
Độ dài 6,062 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-27 16:26:28
Sau chap này mình đổi tên Đế quốc Ashbelt thành Earthbelt nhé. Đế quốc có tên Earthbelt vì nằm ở vùng đất được bao quanh bởi nhiều dãy núi.
========================
V. Hiền Đế
Vào những năm 700 lịch Quang âm, Đế quốc Earthbelt xuất hiện trong lịch sử của lục địa Duvedirica.
Vào bấy giờ, số lượng quốc gia trải dài trên khắp lục địa nhiều hơn ngày nay, và tất cả quốc gia đều không ngừng đấu tranh, tàn sát lẫn nhau để giành quyền thống trị lục địa. Tương truyền rằng Đế quốc đã được khai sinh trong thời đại hỗn mang ấy. Người thành lập Đế quốc chính là Richard Heinz, lãnh chúa phong kiến đương thời của Vương quốc Farnest. Giả thuyết Đế quốc được thành lập bởi chính tay Richard là một giả thuyết mạnh mẽ nhất trong lịch sử. Vì chán ghét sự mục nát và tham nhũng của bộ máy chính trị Vương quốc, ông đã rời bỏ Vương quốc, cùng những người chiến hữu của mình di tản đến phía Bắc lục địa để thành lập một quốc gia lý tưởng.
Tuy nhiên, không có bất kỳ tư liệu lịch sử nào có thể hoàn toàn chứng minh được giả thuyết này. Vì thế, có rất nhiều học giả vẫn còn nghi ngờ về tính xác thực của giả thuyết. Họ cho rằng một kẻ giữ chức vụ Lãnh chúa lại rời bỏ đất nước của mình để thành lập quốc gia riêng là điều hết sức vô lý và hoang đường.
Nhưng bộ máy chính trị tham nhũng và mục nát của Vương quốc lúc bấy giờ là điều chắc chắn. Đấy là thời điểm Leonhardt Valquez, người về sau được ca tụng như một vị anh hùng cứu quốc, đã quyết liệt cải cách bộ máy chính trị trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, và giúp Vương quốc Farnest bước sang trang sử mới. Sự việc này đã trở thành tâm điểm và chủ trương của giới học thuật bấy giờ.
Giả thuyết thứ hai lại cho rằng tiền thân của Giáo hội Illuminus, Thánh đường tôn thờ nữ thần Citresia có liên quan mật thiết đến việc thành lập Đế quốc. Bằng chứng cho giả thuyết này chính là vị tổng giám mục của thánh đường có tên trong danh sách những người góp phần xây dựng Đế quốc.
Nhưng Giáo Hội Illuminus đã phủ định giả thuyết ấy.
Đế quốc tọa lạc ở phía Bắc lục địa, nơi có nhiều dãy núi đồ sộ, hùng vĩ bao quanh, và đồng bằng có thể nói rất hạn hẹp. Do đất đai nơi đây cằn cỗi, dẫn đến việc sản lượng nông nghiệp tương đối thấp, cây trồng không thể phát triển tốt. Ngoài ra, lũ quái thú hung tợn rải rác ở khắp mọi nơi, thực tế nơi này không phải là một môi trường sống phù hợp dành cho con người.
Dù điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như thế, nhưng chỉ trong vòng chưa đầy hai trăm năm, Đế quốc đã phát triển thành cường quốc sánh ngang với Vương quốc. Không còn nghi ngờ gì nữa, đấy chính là món quà mà các vị Hoàng Đế kiệt xuất, lỗi lạc đã ban tặng qua nhiều thế hệ. Và trên toàn lục địa Duvedirica ngày nay, có một loại rau củ tên là “Earth Pumpkin”[note18768] rất được phổ biến và ưa chuộng vì nó có thể trồng trọt và thu hoạch được ở những vùng đất cằn cỗi.
Đó là thành quả của công trình nghiên cứu cải tiến và nhân giống cây trồng dưới sự chỉ thị của Hoàng đế. Hơn thế nữa, những thành tựu mà Đế quốc đạt được trên mọi phương diện là nhiều vô kể.
Từ góc độ quan sát khác, lý do Đế quốc có thể tận hưởng khoảng thời gian hơn hai trăm năm hòa bình để phát triển phồn vinh, thực tế đều nhờ vào việc bị các quốc gia khác xem thường và không chú ý đến. Bởi vì bao quanh Đế quốc là những dãy núi to lớn, hùng vĩ, có thể nói nơi này là cứ điểm phòng thủ hoàn hảo, rất khó để xâm chiếm. Và trên hết, không cường quốc nào có ý định nhắm đến một vùng đất khô cằn và khắc nghiệt như thế.
Do đó, chỉ duy nhất Đế quốc có thể tận hưởng sự hòa bình và tập trung phát triển, tăng cường sức mạnh quốc phòng trong suốt thời đại hỗn mang, loạn lạc ấy. Đồng thời, các thế hệ Hoàng Đế đều là những người thận trọng và căm ghét chiến tranh cũng là một trong những lý do chính.
Chính sách ly khai tưởng chừng như sẽ tồn tại mãi mãi ấy, đã chấm dứt khoảng vào những năm 950 lịch Quang âm. Vương quốc lúc bấy giờ đã kiệt sức vì phải đối phó với các trận chiến dai dẳng, đã ra lệnh cho những quân đoàn được phái đến nhiều quốc gia khác nhau phải quay trở về Vương quốc. Từ đó trở đi, các nước nhỏ phía Nam lục địa đã liên kết với nhau và thành lập liên minh phi chiến tranh để có thể tồn tại trong thời kỳ hỗn mang, loạn lạc, và khai sinh ra Liên bang Sutherland. Mặc dù giữa các nước nhỏ vẫn còn một vài xích mích và xung đột, nhưng tình hình chung của lục địa có thể được xem như hoà bình.
Năm 965 lịch Quang âm, Hoàng đế Ramsar XII qua đời vì bạo bệnh.
Ông băng hà ở độ tuổi bốn mươi. Ông nắm quyền cai trị Đế quốc chỉ vỏn vẹn bảy năm.
Ông là Hoàng đế có tuổi đời ngắn nhất trong suốt các triều đại Hoàng đế. Sau đó, con trai ông, Đệ nhất Hoàng tử Diethelm đã lên ngôi Ramsar XIII. Dù chỉ mới mười lăm tuổi, Hoàng đế đã phát huy được tài năng lãnh đạo và chính trị lỗi lạc, đưa sự phồn vinh của Đế quốc lên tầm cao mới. Khi ông đạt độ tuổi bốn mươi như những vị Hoàng đế tiền nhiệm, ông được nhân dân ca tụng là “Hiền Đế”[note18766] , và khắp nơi trên lục địa đều biết đến danh tiếng của ông.
Và vị Hiền Đế ấy bỗng tuyên bố ý định thống nhất lục địa. Khi nghe được lời tuyên bố của Ramsar, người đáng lẽ phải căm ghét chiến tranh như các thế hệ Hoàng Đế tiền nhiệm, không chỉ mỗi cư dân Đế quốc kinh ngạc mà ngay cả các quốc gia khác cũng lâm vào tình trạng hoang mang. Nhưng cư dân Đế quốc không hề hoảng loạn và lo lắng, bởi họ tin tưởng những việc làm của Hiền Đế luôn luôn đúng.
▼△▼△▼△▼△▼△▼△▼△▼△▼△▼△▼
——Tại phòng khách tiết thuộc lâu đài Risterine, Đế đô Olsted, Đế quốc Earthbelt.
Trên cương vị quốc gia hùng mạnh nhất lục địa, phòng khách tiết thường dùng tiếp đãi các công sứ đến từ nhiều nước khác nhau của Đế quốc Earthbelt được xây dựng rất trang hoàng để thể hiện rõ rệt uy quyền và vinh quang lẫy lừng của mình. Những kiệt tác hội họa được trưng bày khắp nơi, bên cạnh đó toàn bộ các bức tường được trang trí bằng những chạm khắc đầy tinh xảo và mỹ nghệ của những người thợ thủ công hạng nhất.
Chiếc đèn chùm đa tầng được đúc bằng vàng khối treo lơ lửng trên trần nhà, tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Sàn nhà được trải thảm màu đỏ thẫm, có hiệu quả cách âm xuất sắc, dù có chạy nhảy cũng không hề phát ra tiếng động. Phía trên cao của bức tường treo một lá cờ có thêu hai thanh kiếm bắt chéo thành hình chữ thập, được gọi là “Thập Tự Kiếm” - quốc huy của Đế quốc.
Hoàng đế Ramsar XIII, chủ nhân của lâu đài Risterine đang ngồi ngay ngắn trên ngai vàng và lắng nghe báo cáo về tình hình chiến trường từ cấp dưới của ông. Bên cạnh Ramsar không ai khác chính là thủ tướng d’Armes. Người đang báo cáo tình hình là tướng quân trẻ tuổi của Đế quốc, Đại tướng Felix von Sieger. Ngay từ khi còn nhỏ, Felix đã được Ramsar đánh giá là một cậu bé có tài năng hơn người.
Đồng thời gã cũng là một trong “tam tướng quân” của Đế quốc. Gã chịu trách nhiệm chỉ huy và dẫn dắt “Thương kỵ sĩ đoàn”[note18767] , quân đoàn tinh anh nhất thuộc quân đội Đế quốc. Bên cạnh việc là người đứng đắng và tận tụy, gã còn là một mỹ nam, tựa như lá bùa mê đã khiến biết bao trái tim của các cung nữ phải thổn thức và rộn ràng. Nhờ vào hai yếu tố trên, gã đã rất nổi tiếng trong lòng người dân.
Felix trải tấm bản đồ to lớn lên trên bệ đá và lặng lẽ báo cáo về tình hình Mặt trận phía Bắc, Mặt trận Trung ương và Mặt trận phía Nam. Dù chưa hề lên tiếng, nhưng Ramsar thỉnh thoảng vẫn gật gù vài cái.
“——Đó là những báo cáo về tình hình chiến trường. Nếu bệ hạ cho phép, chiến dịch đánh chiếm pháo đài Gallia sẽ được tiến hành ngay lập tức. Ý bệ hạ thế nào?”
Felix khéo léo dò hỏi bằng thái độ tế nhị, cung kính. Sau đấy, Ramsar chậm rãi ghé sát vào tai d’Armes và thì thầm. Tuy bất kính, nhưng Felix không khỏi phàn nàn trong lòng “Lại nữa sao?”. Felix gần như không có cơ hội được trực tiếp đối thoại với Ramsar. Tất cả đều phải thông qua d’Armes. Felix đã hỏi những người khác về vấn đề này và được biết rằng mọi người ai cũng đều phải trải qua tình huống tương tự.
d’Armes kính cẩn gật đầu và quay sang Felix:
“Ta sẽ truyền lại cho cậu thánh chỉ của Hoàng Đế bệ hạ : ‘Vẫn còn quá sớm, hãy tiếp tục quan sát hành động của Vương quốc.’ Hết.”
“......Thần xin tuân theo thánh chỉ của Bệ hạ.”
Felix đặt tay lên trước ngực, lùi lại một bước và cúi chào trang trọng. Sau đấy gã xoay người một cách hiên ngang và bước về phía lối ra của phòng khách tiết.
(Quả thật những năm gần đây Hoàng Đế bệ hạ có đôi chút kỳ lạ. Mặc dù bệ hạ là người ít nói, nhưng cũng không phải là kiểu người im lặng không hề nói câu nào như thế này. Nhìn thần sắc của bệ hạ không giống như người đang mắc phải bệnh tật gì. Xét cho cùng, tại sao bệ hạ lại không chịu đưa ra chỉ thị đánh chiếm pháo đài Gallia? Mình hoàn toàn chẳng thể nào đoán được lý do.)
Kế hoạch tác chiến được gửi đến từ thống tướng Osbourne rất hoàn hảo và không có bất kỳ sơ hở nào. Quân đội phía nam có đầy đủ sức mạnh quân sự và sĩ khí cũng rất cao. Điều duy nhất đáng bận tâm chính là báo cáo đầy bí ẩn về việc quân sĩ bách chiến bách thắng Samuel bị giết chết bởi thiếu nữ lữ hành.
Nhưng nhìn chung thì đấy chỉ là một việc nhỏ nhặt không đáng kể. Hiện tại vẫn là thời cơ thích hợp để đánh chiếm pháo đài Gallia, nên Osbourne đã xin chỉ thị từ Hoàng Đế.
Điều này không hề giống với những phán đoán sắc sảo của vị Hiền Đế Ramsar như thường lệ. Nghĩ tới đây, Felix cảm thấy bất an trong lòng.
Cùng với tiếng thở dài, Felix lui khỏi phòng khách tiết. d’Armes cũng cung kính cúi chào Ramsar và theo sao Felix. Khi hai người đã đi khỏi, những người cảnh vệ liền đóng cửa phòng lại với động tác thành thạo. Chỉ còn Hoàng Đế Ramsar cùng vài người cảnh vệ còn sót lại trong phòng khách tiết. Nắng chiều ngả về phía Tây, những tia nắng mặt trời đỏ rực huyền ảo xuyên qua ô kính cửa sổ, soi sáng cả căn phòng.
Ramsar lặng lẽ ngồi bất động trên ngai vàng, cùng với khuôn mặt không lắng đọng cảm xúc.
Ⅵ. Hội nghị quân sự tại Vương quốc.
——Phòng hội nghị quân sự, Lâu đài Leticia, Vương đô Fiss, Vương quốc Farnest.
Quân đoàn 1, theo sắc lệnh của Quốc vương Alfons, đã tổ chức một buổi hội nghị để bàn bạc về kế hoạch giành lại pháo đài Kiel.
Theo ghi chép lịch sử của lục địa Duvedirica, những người tham gia chính của hội nghị là Cựu tướng quân dày dặn kinh nghiệm Cornelia, trung tướng Lambert và Phụ tá sĩ quan Neinhart.
“Cậu đã thăm dò được quân số của pháo đài Kiel chưa?”
“Vâng, theo thông tin điều tra được từ mật vụ, tổng quân số của pháo đài Kiel là……80,000.”
Mọi người đều im bặt trước câu nói ấy. Khi bầu không khí của phòng hội nghị trở nên nặng nề, trung tướng Lambert là người đầu tiên lên tiếng. Ông là một mãnh tướng bách chiến bách thắng của quân đoàn 1, một chiến binh thực thụ. Các vết sẹo to nhỏ chằng chịt khắp cơ thể là minh chứng cho những trận chiến của ông.
“80,000 sao…… Quân đoàn 1 của chúng ta chỉ có 50,000 binh sĩ. Chúng ta đang gặp bất lợi về mặt số lượng.”
Đại tá Neinhart đặt một quân cờ lên bản đồ, những lời tiếp theo của cậu không khác gì bản án tử:
“80,000 mới chỉ là quân số của Đế quốc. Nếu chúng ta tính luôn hai nước đồng minh gồm Công quốc Stonia và Vương quốc Swaran, đấy sẽ là 140,000.”
“Haha. 50,000 đánh với 140,000 sao, thật không công bằng. Ta biết việc này rất cố chấp, nhưng ta vẫn phải hỏi, có thật là chúng ta không thể nhờ tới sự giúp đỡ của quân đoàn 3 và quân đoàn 4 không?”
“Tôi đã thử điều tra, và cả hai quân đoàn ấy đều không đủ quân lực để viện trợ cho chúng ta.”
Neinhart bình tĩnh trả lời câu hỏi của Lambert. Đồng thời y đặt một quân cờ trắng vào vị trí mặt trận phía Bắc trên bản đồ được kí hiệu bằng dấu X màu đỏ, và quân cờ trắng đang ở trong tình trạng bị bao vây bởi các quân cờ đen.
Khi chiến tranh vừa mới nổ ra, Đế quốc đã huy động 80,000 binh sĩ sang xâm lược vùng Bắc bộ của Vương quốc Farnest. Mục đích của chúng nhằm chiếm đóng các kho thóc ít ỏi có thể đếm được trên đầu ngón tay của Vương quốc, và khiến Vương quốc lâm vào tình cảnh thiếu hụt lương thực. Điều này cho thấy ngay từ đầu Đế quốc đã hướng tới chiến tranh lâu dài.
Để đáp trả lại, Vương quốc đã huy động quân đoàn 3, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Lats Smith; và quân đoàn 4, dưới sự chỉ huy của Trung tướng Lindt Baltic, tổng cộng 60,000 binh sĩ tiến hành chặn đánh Đế quốc. Trung tướng Lats và trung tướng Lindt là hai người bạn thân thiết với nhau từ thời còn học ở Học viện quân sự, và với sự phối hợp hoàn hảo của họ, quân đội Đế quốc dù hơn về mặt quân số cũng chỉ như con rối trong lòng bàn tay, dễ dàng bị chi phối và đùa giỡn.
Về sau, trận chiến lịch sử ấy được mệnh danh là “trận chiến lý tưởng Veilkul”.
Đầu tiên, quân đoàn 3 giả vờ bại trận và tiến hành rút quân, dụ dỗ thành công quân Đế quốc đến khu vực đồi núi chật hẹp. Nhân lúc hàng ngũ của quân Đế quốc bị kéo giãn, quân đoàn 4 mai phục xung quanh phát động tổng tấn công. Quân đoàn 3 cũng tận dụng thời cơ này để đánh trả lại.
Quân Đế quốc ngay lập tức rơi vào tình cảnh vô cùng hỗn loạn, và nhanh chóng tan rã. Trận chiến này đã khiến Đế quốc phải chịu tổn thất nặng nề, khi có đến hơn 40,000 binh sĩ tử trận. Sau đấy, quân đoàn 3 và quân đoàn 4 thừa thắng xông lên, liên tiếp nhiều lần đánh bại và đẩy lùi quân Đế quốc. Và cuối cùng đã giành lại được những vùng đất bị rơi vào tay giặc, thậm chí còn đem quân xâm nhập vào lãnh thổ Đế quốc.
Thật đáng tiếc, tình thế đã bị đảo ngược bởi thất bại của chiến dịch Arschmitz. Việc quân đoàn 5 bị xóa sổ đã khiến quân đoàn 3 và quân đoàn 4 rơi tình trạng nguy hiểm khi phía sau họ hoàn toàn bỏ trống, khả năng rơi vào thế gọng kìm là rất cao. Một vài tướng lĩnh khác kiên quyết cho rằng nên tiếp tục tấn công vào lãnh thổ Đế quốc, nhưng Lindt và Lats đã từ chối. Họ phối hợp lẫn nhau và cố rút lui khỏi mặt trận.
Dù quyết định ấy hoàn toàn chính xác, nhưng đồng thời, sự phối hợp ấy không thể kéo dài được lâu. Trên thực tế, quân đoàn 3 và quân đoàn 4 đang bị mắc kẹt ở trận chiến mà chính họ đã khơi mào. Và hiện tại, họ không ngừng nỗ lực duy trì mặt trận dưới sự tấn công dồn dập của kẻ địch.
“Trung tướng, đừng cố chấp đòi hỏi những điều mà ngài đã biết là nó bất khả thi. Hơn nữa, với quân số ít ỏi và thua thiệt như thế mà họ vẫn có thể chống đỡ được cả mặt trận phía Bắc, đã là một việc đáng tuyên dương rồi.”
Thống soái Cornelia liếc nhìn tấm bản đồ và thở dài. Ông là tổng tư lệnh của quân đoàn 1, khi còn trẻ, ông được biết đến với danh hiệu “Tướng quân Bất bại”. Nhưng giờ đây đã ngoài bảy mươi, khí chất và dũng khí năm xưa đã không còn nữa.
Lambert nhún vai và đưa mắt nhìn Neinhart.
“Quay trở lại vấn đề chính, tình hình mặt trận phía Nam như thế nào?”
“Theo báo cáo của Trung tướng Paul, Quân Đế quốc đang tập trung lực lượng tại pháo đài Casper, dường như chúng đang có ý định đánh chiếm pháo đài Gallia.”
“Nếu vậy, tôi e rằng Quân đoàn 7 cũng không đủ quân lực để viện trợ cho chúng ta.”
“Đành phải chịu thôi. Bệ hạ đã ra chỉ thị trực tiếp cho Paul trấn giữ pháo đài Gallia. Hơn nữa, việc tự tiện điều động và chia nhỏ lực lượng trong tình huống này chỉ càng thu hút thêm nhiều kẻ địch mà thôi.”
Những lời của Cornelia khiến cho mọi người ở phòng hội nghị đều đồng loạt cảm thấy hoang mang và khó xử. Pháo đài Gallia là cứ điểm quan trọng phải giữ cho bằng được dù có phải đánh đổi bằng cả mạng sống. Một khi pháo đài Gallia thất thủ, cũng là lúc cánh cổng dẫn đến Vương đô được mở rộng, và quân Đế quốc có thể dễ dàng vượt qua dãy núi Esther và xâm chiếm Vương đô Fiss. Nếu việc đó diễn ra, quân đội Vương quốc chỉ còn cách hy sinh thân mình để chiến đấu với kẻ thù.
Tuy vậy, ngồi im và theo dõi lũ Đế quốc đáng ghét bành trướng không phải là một phương án hay. Các quân đoàn khác chắc chắn sẽ không đủ bình tĩnh để cho phép quân đoàn 7, với lực lượng vẫn còn nguyên vẹn, ăn không ngồi rồi được. Dù không nói ra, nhưng quả thật đấy là suy nghĩ của nhiều sĩ quan trực thuộc các quân đoàn khác nhau.
“Nếu như pháo đài Casper không rơi vào tay giặc……”
Một viên sĩ quan lẩm bẩm, và ánh mắt của mọi người đều tập trung vào một điểm trên bản đồ.
Pháo đài Casper có lịch sử rất lâu đời, có niên đại từ thời kỳ của chủ nghĩa ly khai. Ban đầu, pháo đài được xây dựng nhằm đe dọa các quốc gia phía Nam, nhưng sau đấy vai trò chiến lược của pháo đài Casper đã giảm sút, và sau khi xây dựng pháo đài Kiel, thì pháo đài Casper gần như đã bị bỏ hoang trong nhiều năm.
Tuy nhiên, tình thế đã hoàn toàn thay đổi khi mà pháo đài Kiel thất thủ và rơi vào tay Đế quốc tại mặt trận Trung ương. Là một cứ điểm quân sự có thể uy hiếp được pháo đài Kiel, vai trò chiến lược của pháo đài Casper nhanh chóng tăng mạnh.
Nhưng khi Vương quốc nhận ra thì đã quá trễ. Chưa đầy nửa tháng sau khi đánh chiếm pháo đài Kiel, Đế quốc đã huy động quân đội sang tấn công pháo đài Casper. Viện quân không thể đến cứu trợ kịp thời, và đơn vị đồn trú dưới sự chỉ huy của trung úy Kutum đã hoàn toàn bị xóa sổ.
Ngày nay, dưới sự kiểm soát của quân đội Đế quốc, pháo đài Casper đã trở thành cứ điểm tiến công để đánh chiếm pháo đài Gallia. Có thể nói Đế quốc đã phát huy tối đa vai trò chiến lược của pháo đài Casper.
“Việc đã xảy ra rồi giờ có nuối tiếc cũng chẳng có tác dụng gì. Thay vào đó, cậu nắm được quân số của pháo đài Casper chứ?”
“Xin đợi một lát.”
Neinhart lật lướt qua xấp tài liệu trên tay, và tìm thấy một bản tường thuật có liên quan đến 《Ước tính quân số của pháo đài Casper》. Loại hình báo cáo này thường không đáng tin tưởng, bởi vì chỉ dựa trên những suy đoán chủ quan, và luôn đánh giá thấp quân số của kẻ địch. Nhưng lần này là ngoại lệ.
Neinhart nhớ lại gương mặt của người đàn ông “Thiết diện”, cậu đáp:
“——Chỉ là ước tính thưa ngài, hiện tại vào khoảng 50,000 binh sĩ.”
“Oh, 50,000……”
Vừa dứt lời, Lambert nhắm mắt và khoanh tay suy nghĩ. Bộ dạng ấy trông như thể ông vừa nảy ra được một kế hoạch nào đấy.
Neinhart không phải là người duy nhất nghĩ như vậy.
“Trung tướng. Ngài vừa nghĩ ra được kế hoạch gì sao?”
Cornelia hỏi và nhìn Lambert bằng cặp mắt chất vấn. Lambert chậm rãi mở mắt ra và nói:
“Tôi chỉ vừa mới nghĩ đến thôi, nếu chúng ta giành lại pháo đài Casper trước thì thế nào? Quân đoàn 1 sẽ huy động 25,000 binh sĩ, và quân đoàn 7 huy động thêm 30,000 nữa. Tổng cộng sẽ có khoảng 55,000 binh sĩ. Điều này sẽ tăng tỉ lệ chiến thắng lên đến hơn 50%.”
Vài tên sĩ quan trẻ tuổi thốt lên “Ohhhh!”, tỏ ý khen ngợi kế hoạch của Lambert. Đó là bởi chúng đang cố nịnh bợ Lambert, người sẽ sớm trở thành tổng tư lệnh của quân đoàn 1 trong tương lai. Nhưng bản thân Lambert không hề để tâm tới những lời ấy.
(Vương quốc đang bấp bênh, vậy mà đám người này lại có thể sống nhàn nhã như thế.)
Neinhart lặng im quan sát những tên sĩ quan trẻ tuổi, nhưng chúng vẫn chẳng ngần ngại một chút nào cả, còn công khai thảo luận và tán dương kế hoạch Lambert. Trong mắt bọn chúng, sự nghiệp và địa vị còn quan trọng hơn cả vận mệnh của Vương quốc.
Cornelia không để tâm tới việc đấy, ông tiếp tục:
“Như ta vừa mới nói, quân đoàn 7 hiện tại không thể tùy tiện huy động lực lượng.”
“Ngài không thể bỏ qua việc đấy được sao? Nếu giành lại được pháo đài Casper, chúng ta sẽ xuyên thủng được mạng lưới bao vây pháo đài Gallia của lũ Đế quốc. Kể từ đó, chúng ta có thể cùng với quân đoàn 7 đánh chiếm lại pháo đài Kiel.”
“Quả thật…... Hoàn toàn chính xác…… Nhưng bệ hạ……”
Cornelia lẩm bẩm và vuốt ve bộ râu trắng muốt của mình. Dường như những lời của Lambert hoàn toàn đúng. Để tiếp tục thuyết phục Cornelia, Lambert bổ sung:
“Hơn nữa, theo bản báo cáo vừa rồi, một mình quân đoàn chúng ta không đủ khả năng để đánh chiếm lại pháo đài Kiel. Tôi nghĩ là ngài cũng biết rõ điều này, thưa ngài thống soái. Mong ngài thứ lỗi, nhưng ngài sẽ không để tất cả những sĩ quan và binh sĩ trong quân đoàn 1 chúng ta phải hi sinh vô ích đúng chứ, thưa ngài thống soái?
"Huh..."
Lời nhắc nhở cay đắng của Lambert đã khiến Cornelia trưng ra bộ mặt phiền muộn. Những sĩ quan khác đều im lặng và chăm chú lắng nghe cuộc đối thoại giữa hai người.
“......Ta hiểu rồi. Ta sẽ giải quyết sắc lệnh của bệ hạ. Kế hoạch tác chiến cụ thể ta giao cho trung tướng Lambert và trung tướng Paul. Hai người nên bàn bạc kỹ lưỡng trước khi quyết định.”
“Tuân lệnh! Cảm ơn ngài vì đã lắng ý kiến thấp kém của tôi!”
Cornelia xua tay để cản Lambert đang định đứng lên và cúi chào. Những người sĩ quan xung quanh nhìn nhau, thở phào nhẹ nhõm. Có thể tránh được một cuộc chiến vô nghĩa khiến họ cảm thấy yên tâm, và Neinhart cũng không phải ngoại lệ.
Thế nhưng Neinhart đã nhanh chóng lấy lại phong độ và đưa ra lời đề nghị với Cornelia:
“Thưa ngài thống soái, ngài có thể để tôi phụ trách việc liên lạc với quân đoàn 7 không? Có vài chuyện khiến tôi bận tâm.”
“——Được thôi. Cậu là người thích hợp nhất. Ta không biết cậu đang bận tâm chuyện gì…... Nhưng ta tin tưởng cậu.”
Với những lời đó, Cornelia đứng dậy từ chiếc ghế của mình. Thấy vậy, Lambert tuyên bố giải tán, và tất cả sĩ quan đều rời khỏi phòng hội nghị với vẻ mặt mệt mỏi.
Trong khi sắp xếp lại mớ tài liệu trên tay, Neinhart đọc bản báo cáo được gửi đến từ quân đoàn 7. Neinhart đã không đề cập đến bản báo cáo ấy, vì nó không cần thiết cho buổi hội nghị. Nó có nhắc đến một người lính tình nguyện đã lấy đầu Samuel, kẻ đã giết chết thiếu tướng Lantz, bạn thân của Neinhart, người không may thiệt mạng trong chiến dịch Arschmitz.
——Đấy là báo cáo về chuẩn úy Olivia.
(Theo bản báo cáo, cô ấy chỉ là một thiếu nữ 15 tuổi…… Không thể tin nổi. Nhưng trung tá Otto chắc chắn không phải là người sẽ bịa đặt về tình hình quân sự. Dù thế nào đi nữa, mình cần phải gặp mặt cô ấy một lần để nói lời cảm ơn.)
Neinhart lặng lẽ đóng cửa phòng hội nghị, trong khi nghĩ ngợi về cô gái mà anh chưa từng gặp mặt.
——————
——Quân đội Vương quốc. Văn phòng trung tá Otto, pháo đài Gallia.
Trong lúc này, buổi hội nghị bàn bạc kế hoạch giành lại pháo đài Kiel đang diễn ra ở Vương đô.
Otto gọi Olivia đến văn phòng của ông để truyền đạt lại nội dung của kế hoạch tác chiến. Dù đã đến giờ quy định, nhưng Olivia vẫn chưa xuất hiện. Năm phút, mười phút trôi qua, văn phòng bắt đầu phát ra tiếng gõ đều đặn và ồn ào. Những người lính bên ngoài hành lang đều nghiêng đầu bối rối khi nghe được âm thanh khó hiểu ấy.
Sau 30 phút, cuối cùng Olivia cũng có mặt tại văn phòng của Otto. Cô không hề tỏ ra hối lỗi, thay vào đó cô thản nhiên thực hiện một động tác chào kiểu quân đội vô cùng duyên dáng.
“Chuẩn uý Olivia. Trước tiên, liệu ta có thể hỏi lý do mà cô đến trễ 30 phút không?”
“Xin báo cáo, đó là do đồng hồ!”
“......Đồng hồ? Nó có liên quan gì đến việc cô đến trễ?”
“Xin báo cáo, tôi không có được chiếc đồng hồ đẹp như ngài phụ tá sĩ quan Otto. Vì thế, tôi không thể nào nắm được giờ giấc một cách chính xác. Đó là lý do tôi đến trễ!”
Với lời nói đấy, Olivia nhìn về phía chiếc đồng hồ quả quýt trên bàn làm việc của Otto bằng cặp mắt thèm muốn. Otto thở dài và với tay đến bàn làm việc của mình. Đó là chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc tuyệt đẹp, với vỏ ngoài được chạm trổ bằng các họa tiết hình cánh hoa, cây kim giây đỏ rực phát ra âm thanh tíc tắc đều đặn như thể đang hòa tấu một khúc nhạc có trình tự bên dưới chiếc nắp đậy. Otto ngắm nhìn chiếc đồng hồ của ông trong giây lát, sau đấy ném nó đi. Chiếc đồng hồ quả quýt vẽ nên một hình vòng cung hoàn hảo trên không, và Olivia vội đưa tay để bắt lấy.
“......Eh?”
“Giờ chiếc đồng hồ ấy là của cô. Vì vậy cô sẽ không thể nào dùng cái lý do biện hộ vớ vẩn này thêm một lần nào nữa.”
Chỉ mới vài ngày trước, ông đã bị Olivia chọc giận đến nỗi không thể kiểm soát được cảm xúc. Lần này, rút kinh nghiệm từ bài học trước, ông biết rằng tốt nhất nên đưa chiếc đồng hồ quả quýt của mình cho Olivia trước khi chuyện ấy lại xảy ra thêm một lần nữa.
Mặc dù Otto đã ném chiếc đồng hồ ấy đi để có thể kìm chế được cảm xúc, nhưng Olivia lại nhìn lần lượt vào chiếc đồng hồ và Otto với gương mặt sửng sốt. Otto cảm thấy mất kiên nhẫn bởi ánh mắt của Olivia.
“Tôi có thể giữ lấy thứ này sao?”
“Đừng ngại, cứ giữ lấy. Và cô nên hỏi là ‘Liệu tôi có được phép giữ nó không?’ Ta đã nói với cô biết bao nhiêu lần về việc phải ăn nói lễ phép với cấp trên.”
“Đã rõ, tôi thật lòng xin lỗi! Tôi rất cảm kích nhận lấy chiếc đồng hồ quả quýt của phụ tá sĩ quan Otto.”
Olivia đáp cùng mới nụ cười tươi, sau đấy liền loay hoay nghịch chiếc đồng hồ. Cô liên tục đóng mở nắp đậy của chiếc đồng hồ. Phản ứng tựa như đứa trẻ mỗi khi nhận được món đồ chơi mới ấy gợi nhắc Otto về đứa cháu gái sáu tuổi của ông ở Vương đô.
Sau khi đắm chìm trong dòng suy nghĩ miên man được một lúc, Otto phát hiện Olivia đang nhìn ông với vẻ mặt lạ lùng. Dường như ông đã có phần hơi lơ là.
“Ehem, đã đến lúc vào chủ đề chính rồi. Hãy nhanh chóng cất chiếc đồng hồ ấy vào túi áo.”
“Đã rõ, tôi sẽ giữ nó thật cẩn thận!”
Olivia cẩn thận từng li từng tí và cất chiếc đồng hồ quả quýt vào túi áo trước ngực như thể đấy là kho báu của cô. Otto khoanh tay lại và hắng giọng.
“Ta gọi cô đến đây vì có một nhiệm vụ đặc thù được bổ nhiệm cho chuẩn úy Olivia. Nhưng cô biết đấy, xét theo luật lệ, cô có thể từ chối các nhiệm vụ đặc thù. Thời gian có hạn, do đó ta hi vọng cô sẽ lập tức đưa ra quyết định của mình.”
Nhiệm vụ đặc thù là những nhiệm vụ bí mật và tương đối khó khăn được thi hành bởi một tiểu đội ít người. Bởi vì các nhiệm vụ đặc thù nguy hiểm đến tính mạng, nên người được bổ nhiệm có quyền từ chối.
Nhân tiện, nếu hoàn thành nhiệm vụ một cách suôn sẻ, nhất định sẽ được thăng chức. Xét đến tính cánh của Olivia, Otto nghĩ rằng khả năng cô từ chối nhiệm vụ là rất thấp. Và như dự đoán của ông, Olivia trả lời ngay lập tức mà không hề do dự:
“Vâng, tôi không có ý kiến gì. Chuẩn úy Olivia, sẵn lòng chấp nhận nhiệm vụ đặc thù!”
“Câu trả lời rất tốt. Vậy ta sẽ trình bày nội dung của nhiệm vụ lần này. ‘Chuẩn úy Olivia sẽ dẫn theo binh lính để giành lại pháo đài Ramburg.’”
Otto đứng dậy từ chiếc ghế của mình và chỉ vào một điểm trên tấm bản đồ treo tường phía sau ông. Là một pháo đài được đánh dấu X kèm với dòng ghi chú 《Bỏ hoang》. Olivia nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ và khẽ nghiêng đầu.
“Không phải đấy là pháo đài hoang sao?——À không, theo suy nghĩ của tôi, dường như pháo đài ấy đã bị bỏ hoang?”
Olivia ngay lập tức thay đổi lời nói của mình khi nhận ra cô không dùng kính ngữ. Nhìn thấy khuôn mặt mỉm cười của Olivia, Otto thở dài:
“Đúng như chuẩn úy vừa nói, pháo đài đã bị bỏ hoang gần mười năm. Giờ đây nó đã trở thành hang ổ của lũ sơn tặc. Nói cách khác, cô cần phải giành lại pháo đài từ tay lũ cướp.”
“Tại sao ngài muốn nhặt lại cái thứ mà mình đã vứt đi như vậy?”
“Chú ý lời nói…… Thôi kệ đi. Trước khác, nay khác. Chuẩn úy cũng biết rõ hiện nay quân đội ta phải chịu nhiều bất lợi trước quân đội Đế quốc. Pháo đài Ramburg rất cần thiết để có thể chống đỡ được các cuộc tấn công sắp tới của bọn chúng.”
Trước đây, Otto đã vài lần huy động tiểu đội đi thảo phạt và tiêu diệt lũ cướp ở pháo đài Ramburg. Nhưng tất cả đều thất bại. Theo lời của những người lính sống sót, hầu hết bọn họ bị giết chết bởi một gã cầm giáo dài.
Dù đã cân nhắc đến việc huy động trung đội, nhưng việc đấy không khả quan cho lắm. Một nhóm binh sĩ quy mô lớn sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Hiện tại tai mắt của Đế quốc đã phân bố ở khắp mọi nơi, nếu tùy tiện huy động lực lượng sẽ bị Đế quốc phát hiện.
Trong trường hợp việc hành quân bị phát hiện và Đế quốc biết được sự tồn tại của pháo đài Ramburg, chắc chắn chúng sẽ huy động lực lượng để đánh chiếm. Trường hợp tệ nhất, việc này sẽ trở thành một đòn bẩy để Đế quốc đẩy mạnh thế tiến công. Sau khi cân nhắc kỹ càng về những lợi ích và thiệt hại, Otto gần như từ bỏ kế hoạch giành lại pháo đài Ramburg.
Nhưng sự xuất hiện của Olivia chính là một bước ngoặt lớn cho kế hoạch ấy. Để đối phó với kỹ năng của gã cầm giáo, đành phải nhờ cậy vào khả năng chiến đấu của “Quân cờ mạnh nhất quân đoàn 7” Olivia.
Sau khi đã giải thích một cách chi tiết, Otto bổ sung thêm một câu cuối cùng với ý dò hỏi:
“——Như ta vừa mới nói, tất cả nhiệm vụ thảo phạt trong quá khứ đều thất bại. Dẫu vậy, cô vẫn chấp nhận nhiệm vụ này sao?”
“Hmm…… Đơn giản mà nói thì chỉ cần giết sạch lũ sơn tặc, có phải vậy không?”
Câu trả lời sặc mùi nguy hiểm của Olivia khiến gương mặt Otto trở nên căng thẳng, nhưng bởi vì cô nói đúng, Otto đành phải gật đầu:
“Có thể nói như vậy.”
“Đã rõ. Nhân tiện, ngài có muốn đầu không?”
“Đầu?”
“Đúng vậy. Đầu.”
Đột nhiên Olivia đề cập đến đầu khiến Otto hoang mang trong giây lát. Ông liền ra lệnh cho Olivia giải thích chi tiết hơn. Cô ngạc nhiên hỏi:
“Không phải con người rất vui khi có được đầu kẻ thù sao?”
Sau khi nghe được câu hỏi ấy, Otto hồi tưởng lại cái ngày mà Olivia đến pháo đài và mang theo một bao tải chứa đầy đầu của lính Đế quốc. Cảm thấy cơn ớn lạnh chạy quanh cổ họng mình, Otto liền lắc đầu.
“——K-Không. Ta không cần đầu bọn chúng.”
“Đã rõ, tôi sẽ làm theo mệnh lệnh đánh chiếm lại pháo đài Ramburg!”
“Tốt lắm, ta rất mong đợi thành quả mà cô sẽ đạt được. Cô có thể lui.”
Olivia phấn khởi xoay người và nhanh chóng rời khỏi văn phòng. Bước chân của cô tràn đầy tự tin, không hề vướng bận bất kỳ lo lắng nào về nhiệm vụ được giao. Bằng chứng cho việc đó chính là giọng nói nhàn hạ của cô đến từ bên ngoài cánh cửa, “Ah, mình quên hỏi khi nào họ mới gửi cho mình bánh ngọt.”.