Chương 1 >>> 3
Độ dài 20,174 từ - Lần cập nhật cuối: 2019-10-29 05:00:14
1.1
Khi Hirose vừa đến cổng trường thì một nhóm học sinh cũng vừa đi vào, tất cả đều mặc cùng một bộ đồng phục đơn điệu và la hét theo cái kiểu của học sinh cấp Ba, có lẽ là do vừa nghỉ hè vào nên chúng có vẫn còn tiếc nuối. Những cơn gió mang đến cái hương vị nhè nhẹ của biển cả hòa cùng tiếng ve kêu cuối hè.
Đồng phục của trường màu xám và trắng, chiếc cà vạt màu xanh da trời khiến cái bộ quần áo này trông đỡ đơn điệu hơn. Nhưng dưới góc nhìn của lũ học sinh, trời đã nóng, đeo vào mấy thứ này khiến chúng còn nóng hơn, một vài đứa đã kéo cà vạt xuống cho đỡ nóng nhưng lại bị một giáo viên đứng ở cổng bắt được và la rầy.
Thấy vậy, Hirose bật cười rồi nhận ra cà vạt của mình cũng không đàng hoàng cho lắm. Anh vội kẹp chiếc cặp vào dưới cánh tay rồi chỉnh lại cà vạt, trên môi thoáng một nụ cười cay đắng.
Khi anh vẫn còn theo học trường phổ thông trung học này, đồng phục vốn không có cà vạt, chúng chỉ vừa được thêm vào hai năm sau khi anh ra trường. Trước đây, đồng phục mùa hè chỉ là áo trắng quần đen, sau này mới đổi thành kiểu cái trông thích hợp với mấy giáo viên nghiêm túc hơn là cho học sinh như thế này. Dù sao anh cũng không phải là một giáo viên nghiêm túc mà chỉ là một thực tập sinh thôi nên cũng có chút buồn cười.
Anh vào trường rồi đi về phía văn phòng khoa cùng những giáo viên khác. Nhìn những gương mặt quen thuộc trước kia, anh gật đầu chào rồi lấy từ trong cặp sách một tấm hình để xác nhận lại từng khu nhà. Anh nhìn quanh, tìm kiếm cái phòng học đặc biệt ấy.
oOo
Hirose đã tốt nghiệp từ trường phổ thông trung học tư thục này ba năm trước. Căn cứ vào điểm hensachi[1], đây là trường nam sinh cao cấp. Ngoài ra, ngôi trường này còn có một bề dày lịch sử dài, vì thế nên nó rất nổi tiếng. Nhưng ngoài tỷ lệ cao học sinh được nhận vào những trường đại học hàng đầu ra thì nó cũng chẳng còn gì nổi bật, không có gì hấp dẫn nhưng cũng không có gì đáng ghét.
Khác với những ngôi trường nổi tiếng khác cùng đẳng cấp, trường chỉ có mỗi cấp Ba, mỗi khối gồm sáu lớp, mỗi lớp 40 học sinh, so với những trường khác trong thành phố thì được xem là nhỏ. Ngày Hirose theo học, nó vẫn còn là một ngôi trường cổ bằng gạch nằm giữa lòng thành phố, tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa nên sau khi anh vừa tốt nghiệp, nó đã bị di dời ra khu vực ngoại thành.
Đến tận bây giờ, khi trở lại thực tập thì Hirose mới về trường cũ lần đầu tiên. Lẽ ra nếu muốn, anh có thể về thăm trường bất cứ lúc nào, nhưng không hiểu sao lòng anh cứ cảm thấy ngần ngại.
Khi anh vẫn còn theo học, ngôi trường này là địa bàn của anh, là nơi anh sinh sống, là mái nhà thứ hai của anh. Tuy nhiên, sau khi ra trường, nó đã trở thành chỗ của người khác, còn anh chỉ là một kẻ ngoài cuộc. Ngoài ra, cả ngôi trường cũng đã bị di dời sau khi Hirose tốt nghiệp, ngay cả đồng phục cũng đã thay đổi hoàn toàn. Giờ đây, ngôi trường xưa đã không khác gì một nơi xa lạ.
Hirose từng thấy qua ngôi trường mới này khi nó vẫn còn đang được xây dựng. Vùng này nằm gần biển, khắp nơi là những mảnh ruộng hoang vu kéo dài đến chân trời. Giữa cảnh biển thế này, những tòa nhà trông những căn lều đứng trơ trọi giữa trời. Một con đường lớn cắt ngang mặt đất bằng phẳng, nhiều khu dân cư đang được dựng lên quanh trường. Anh vẫn nhớ lúc ngôi trường và những tòa nhà này vẫn còn đang được xây cất, chúng mang hình thù lạ lùng như một chiếc tàu chở dầu hay tàu chở máy bay đang lững lờ trôi giữa biển cả.
Sau khi quá trình xây dựng hoàn thành, nhà cửa mọc lên san sát trên những khoảng đất trống trước đây, tạo thành một thị trấn mới sầm uất. Đường ray cũng được mở rộng, phía trước nhà ga mới là những con đường náo nhiệt. Nhưng đối với Hirose, đó chỉ là một nơi xa lạ.
Ở nơi này, không gì đem lại cho anh cái cảm giác ‘trường xưa’, không một tòa nhà gạch, không một bóng cây gợi nhớ đến ngôi trường cổ kính khi ấy. Dùng từ ‘lịch sử’ để diễn đạt nó thì hơi quá, nhưng nếu dùng từ ‘truyền thống’ thì lại không thích hợp và vô nghĩa.
Ngôi trường mới này rất rộng rãi và sáng sủa. Cây cối được trồng giữa các khu nhà, đổ những chiếc bóng yếu ớt xuống sân trường. Bải cỏ được thiết kế thành những khối hình học xanh biếc và được cắt tỉa cẩn thận đến mức khiến người ta cảm thấy thiếu sức sống. Những hàng cây hai bên con đường chính dẫn từ cổng trường vào sân trường dường như là cây hoa anh đào, nhìn những thân cây to lớn này, có lẽ chúng đã được di đời từ trường cũ đến, nhưng sau khi được trồng trên một vùng đất mới và cắt tỉa lại, chúng đã không còn đem lại cảm giác như trước kia.
Tất nhiên, anh cũng không cảm thấy bồi hồi cho lắm khi trở về trường xưa, thay vào đó là cảm giác như mất đi một thứ gì đó mình từng nương tựa vào, khiến lòng anh cảm thấy trống trải. Bỗng dưng, anh thấy mình không thể dựa dẫm vào bất cứ thứ gì, mỗi khi Hirose suy sụp, anh thường có cảm giác ấy, tựa như mất đi quê hương của mình.
1.2
Giáo viên hướng dẫn của Hirose là thầy Goto dạy khoa học tự nhiên. Bởi vì đây là trường tư thục nên giáo viên cũng ít khi thay đổi, tất cả các thầy cô từ thời Hirose còn đi học vẫn ở lại trường.
Thầy Goto là giáo viên Hóa học, đồng thời cũng là giáo viên chủ nhiệm năm lớp 10 của Hirose. Thầy đã giúp đỡ và ảnh hưởng đến anh rất nhiều.
Hirose rất thích thầy Goto, thầy Goto cũng vậy. Nếu không thật sự cần thiết thì thầy chẳng bao giờ có mặt ở văn phòng khoa. Thầy lúc nào cũng ở trong phòng thí nghiệm Hóa, và Hirose cũng vậy, cứ ở đó cả ngày lẫn đêm suốt ba năm cấp Ba. Vì thế nên anh rất thích môn Hóa và điểm Hóa của anh thời trung học cũng khá cao. Sau khi tốt nghiệp, anh đăng ký vào ngành khoa học tự nhiên của một trường cao đẳng. Vì không thích trở thành nhà nghiên cứu hoặc nhân viên thông thường nên anh quyết định trở thành giáo viên, có lẽ không hoàn toàn vì ngưỡng mộ thầy Goto, nhưng cũng không hẳn là không do thầy ảnh hưởng.
oOo
Những lớp học đặc biệt được xếp sang một khu riêng, gọi là Khu Đặc biệt. Khi đến đây hồi tháng Tám để tập huấn, anh đã được dặn dò rằng phải đến ngay văn phòng khoa Hóa khi đến trường vào học kỳ mới, nhưng anh lại không biết nó nằm ở đâu. Anh cứ vừa đi vừa nhìn quanh, rồi lại ngó vào bức tranh. Khu Đặc biệt được xây dựng theo một kiểu kiến trúc lạ lùng và yên tĩnh đến nỗi khiến người ta cảm giác như bị bỏ rơi. Cuối cùng, anh cũng tìm thấy phòng thí nghiệm Hóa ở cuối hành lang tầng ba, văn phòng khoa nằm kế bên.
Hirose khẽ gõ cửa văn phòng. Bên trong lập tức vang đến một giọng đáp lại: “Vào đi.”
“Em xin phép.” Hirose vừa nói vừa mở cửa phòng.
Mùi dầu lập tức được những cơn gió từ máy lạnh đem đến, tràn vào mũi anh, cái mùi ống nghiệm đặc trưng của phòng thí nghiệm Hóa.
“Xem nào. Chẳng phải đã thành người lớn rồi sao?” Thầy Goto vừa mỉm cười vừa trêu Hirose, ông đứng trước một chiếc giá vẽ gần cửa sổ, trông nó khá lạc lõng giữa văn phòng này.
Vẽ tranh là sở thích riêng của thầy Goto. Tuy chỉ là họa sĩ nghiệp dư, nhưng tranh thầy vẽ không khác gì họa sĩ chuyên nghiệp, thầy cũng phụ trách hướng dẫn Câu lạc bộ Mỹ thuật trường. Hiện giờ thầy đã vẽ xong và đang ngắm nhìn tác phẩm của mình.
Một chiếc tủ đứng dựa vào một trong những bức tường, bên cạnh nó là ba bàn làm việc xếp sát nhau, quay mặt vào mặt tường khác. Cọ, dụng cụ vẽ và màu nước vương vãi trên cái bàn gần giá vẽ, những thứ trên hai cái bàn kia trông có vẻ như tài liệu giảng dạy, tất cả đều bề bộn như nhau. Dụng cụ thí nghiệm và vải bạt để vẽ rải khắp sàn nhà, tấm bảng ghi thời khóa biểu cùng những dòng ghi chú trên tường khiến mọi thứ trông còn lộn xộn hơn, nhưng cái cảm giác này lại làm Hirose cảm thấy thân thuộc như thưở anh vẫn còn là học sinh.
Hirose nhìn thầy Goto, thầy vẫn không hề thay đổi. Nụ cười của thầy khiến anh cảm thấy như mình cuối cùng cũng đã về đến nhà.
“Lâu quá rồi…” Cả Hirose và thầy Goto đồng loạt bật cười.
Hai người đã gặp nhau vào tháng Tám khi anh đến đây để tập huấn, cho nên họ cũng không xa nhau bao lâu, nhưng khi nhìn thấy thầy Goto trong văn phòng khoa, Hirose cảm thấy như đã lâu lắm rồi.
“Mới đây thôi mà em đã thành người lớn và đến cái tuổi đeo cà vạt.”
“Tất cả xin nhờ thầy.”
Sau khi chào hỏi, thầy Goto chỉ về phía cái bàn đầu tiên từ cửa vào. “Cứ dùng bàn của thầy Tanno.”
Ở trường, chỉ có hai giáo viên dạy Hóa là thầy Goto và thầy Tanno. Thầy Tanno là một thầy giáo già vô cùng tử tế, vì không thể chịu được cái mùi ống nghiệm nên thầy rất ít khi đến văn phòng khoa. Tất nhiên, đồ đạc của thầy Goto cũng đã chất đầy bàn thầy Tanno, Hirose vẫn còn nhớ rõ đó đã là thói quen của thầy từ thời anh còn học cấp Ba.
“Cũng vừa đúng giờ phải không?”
“Dù sao em cũng đã lớn rồi.”
Nghe Hirose nói thế, thầy Goto bật cười.
Bố mẹ Hirose chuyển công tác vào mùa đông năm anh học lớp 11. Thời gian ấy không thể chuyển trường nên Hirose đành ở lại một mình và thuê nhà. Sau khi tốt nghiệp, anh theo học một trường cao đẳng vùng mà tiếp tục ở lại nơi anh sinh ra và lớn lên cho đến giờ.
Khi mới bắt đầu ở một mình, do không ai quản giáo nên anh thường đi học trễ. Anh thậm chí còn bị giáo viên chủ nhiệm năm lớp 12 mắng là đồ vô trách nhiệm vì đã đi trễ suốt một tháng. Sau đó, anh vắng mặt nhiều hơn, đơn giản là vì không muốn đến trường.
Thật ra, Hirose vốn không phải là loại thiếu niên thích hợp với trường lớp. Anh không thân với bạn bè cùng tuổi, cũng như không biết phải làm thế nào để các thầy cô hài lòng. Tuy không ghét chuyện học hành, nhưng bị giam hãm trong một ngôi trường đóng kín cùng những đứa trẻ khác nhiều giờ liền khiến anh cảm thấy bức bối. Khi vẫn còn ở cùng cha mẹ, việc cứ phải tranh cãi với họ làm anh phát ngán, vì thế nên anh cứ theo bổn phận mà đến trường. Nhưng từ sau khi ra ở riêng, như những sợi dây trói buộc cuối cùng cũng được gỡ bỏ, Hirose bắt đầu trốn học, tuy không nghiêm trọng đến mức bỏ học, nhưng vẫn vượt xa cái khái niệm lười biếng.
Sau nhiều lần la mắng và tranh cãi mà Hirose vẫn không khá hơn, thầy chủ nhiệm cũng đầu hàng. Cuối cùng, thầy đành tìm thầy Goto, giáo viên Hirose thân nhất, mà cằn nhằn.
“Con người cũng như mắm cá khô.” Thầy Goto đã từng nói. “Ăn không quen thì thấy chúng rất hôi. Nhưng một khi đã quen rồi thì có thể cảm nhận được vị ngon của món ăn này. Nếu em cứ thấy hôi mà bỏ đi thì chẳng bao giờ thưởng thức được hương vị của chúng.”
Khi ấy, Hirose chỉ trả lời đơn giản là anh chưa từng ăn mắm cá khô. Thật ra, anh đã từng suy nghĩ nghiêm túc về việc lên núi, cất một căn chòi rồi sống tách biệt với thế giới bên ngoài. Tuy trong lòng cảm thấy như thế, nhưng những lời của thầy Goto vẫn khiến Hirose phải nghĩ lại. Sau đó, anh mở lòng mình ra và bắt đầu học cách giao tiếp với mọi người, việc này vốn cũng không lạ gì trong đám học sinh lớp 12.
Nói đơn giản, Hirose là một học sinh cá biệt và những gì thầy Goto làm là lắng nghe những bất mãn của anh. Các giáo viên khác cũng hiểu chuyện nên vẫn thường ngầm cho phép Hirose dựa dẫm vào thầy Goto. Bây giờ nghĩ lại, anh mới thấy mình đã làm phiền thầy rất nhiều.
“Đến phòng giáo viên nào.” Thầy Goto lau tay vào chiếc khăn lông đeo ngang hông, đó là thói quen của thầy mỗi khi chuyển sang việc khác.
“Vâng ạ.” Hirose gật đầu và đi theo sau thầy Goto, gương mặt ông vẫn bình thản như trước.
Chẳng hiểu sao Hirose lai không cảm thấy xa lạ. Tại sao thầy Goto lai gọi anh đến văn phòng khoa làm gì trong khi chẳng có việc gì? Có lẽ việc này nhằm giúp Hirose cảm thấy dễ thở hơn.
1.3
Hirose đến tham gia một buổi họp rồi dự lễ khai giảng. Năm nay, số lượng thực tập sinh chỉ là chín người, Hirose là sinh viên duy nhất đăng ký dạy khoa học tự nhiên. Tám thực tập sinh còn lại đều là bạn học cùng lớp nhưng anh chẳng thể nhớ nỗi họ là ai.
Hirose vốn không giỏi giao tiếp. Anh không quan tâm đến việc đem những gì đã xem trên tivi tối qua lên trường để nói chuyện. Ngoài học hành ra, anh cũng không nghĩ đến việc bình luận về bạn bè, thầy cô với những người khác. Anh biết, nếu muốn cải thiện quan hệ với những người anh xung quanh thì anh ráng làm mấy việc đó, nhưng khi ấy, Hirose chỉ là một học sinh trung học nên anh cũng không buồn thử qua. Anh chưa hề nghĩ rằng sống một mình là khó khăn, anh không sợ cô đơn. Anh chỉ trò chuyện cùng một số ít bạn bè cùng lớp và thường dành thời gian ở trong văn phòng khoa, quan hệ giữa anh và những học sinh khác khi ấy cũng chẳng thân thiết đến mức có thể ra ngoài đi chơi. Vì thế nên người duy nhất làm bạn với anh trong những ngày đi học chính là thầy Goto.
Khi thầy hiệu trưởng gọi tên anh và giới thiệu trước toàn trường, anh vẫn đang ngồi nghiêm túc trên ghế, lòng không ngừng nghĩ về những việc này.
oOo
Sau khi buổi lễ khai giảng kết thúc, thầy Goto đến lớp, Hirose cũng đi theo.
Thầy được phân giảng lớp 11-6.
“Thầy phải dạy mười sáu giờ một tuần, môn Hóa cho bốn lớp 11 và môn Khoa học Tự nhiên cho hai lớp 10. Ngoài ra, thầy còn phải chủ nhiệm và hướng dẫn các câu lạc bộ. Thầy giao tất cả cho em.”
“Giao tất cả cho em?”
“Thầy sẽ hướng dẫn quy trình, em cứ thế mà làm theo. Sau đó thì tự mình đứng lớp, thầy sẽ ở bên cạnh hỗ trợ.”
“Thầy chỉ đứng một bên xem thôi à?”
“Chỉ xem thôi.” Thầy Goto mỉm cười.
Hirose lầm bầm trả lời: “Vâng, vâng.”
“Nào, tất cả có mặt đầy đủ chưa?” Thầy Goto nhìn một vòng quanh lớp từ phía bục giảng rồi bắt đầu tiết học.
Hirose đứng trước tấm bảng ghi lịch học cạnh bục giảng và chịu đựng cái nhìn của tất cả học sinh, chúng khiến anh cảm thấy có chút khó chịu. Một số tỏ vẻ tò mò, số khác thì lảng tránh, nhưng anh biết tất cả sự chú ý và hiếu kỳ của chúng đều đang hướng về mình.
Bằng cái giọng trầm trầm, thầy Goto nhắc lại những điểm cần lưu ý đối với toàn thể học sinh. Cái kiểu phát âm rõ ràng cùng cách giảng giải dễ hiểu này khiến Hirose cảm thấy thật thân quen.
Khi thầy Goto bắt đầu nói về Đại hội Thể thao sẽ được tổ chức trong mười ngày tới thì tất cả sự chú ý của học sinh trong lớp liền hướng về phía bục giảng. Việc phải chịu được cái nhìn của hàng chục người khiến Hirose cảm thấy khó chịu nên cuối cùng, anh cũng có thể khẽ thở phào nhẹ nhõm.
“Hội Học sinh vẫn có việc phải báo cáo, vì thế nên nếu không đi quá xa thì các em muốn làm gì cũng được.”
Đây là những lời yêu thích của thầy Goto, ý của chúng là: “Các em muốn làm gì thì làm, nhưng thầy không chịu trách nhiệm, các em hãy làm những việc chính mình có thể tự mình chịu trách nhiệm.”
Hirose mỉm cười, anh nhìn thầy Goto rồi nhìn về phía lớp học. Mỗi đứa đều có một phản ứng khác nhau. Về phía Hirose, thầy Goto là một giáo viên tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả học sinh đều cho rằng thầy là giáo viên tốt. Một số đứa cảm thấy thầy giả tạo và không thích cái vẻ luôn tỏ ra mình luôn thấu hiểu người khác của thầy. Thậm chí một số đứa khác còn cảm thấy những lời của thầy Goto chỉ là mấy câu cửa miệng và cho rằng thầy là người vô trách nhiệm. Những phản ứng khác nhau của học sinh trong lớp đem lại cho Hirose cái cảm giác ấy.
Hirose nhìn quanh và gượng cười. Lớp học này gồm 40 học sinh, tất cả đều cùng tuổi. Theo quy chế học tập, việc này hoàn toàn bình thường, nhưng một khi đã rời trường, người ta sẽ thấy cảnh tượng này thật kỳ lạ, như một nhóm người cùng tuổi, ăn bận giống nhau và cùng có một nét mặt như nhau. Tất cả đều tỏ ra mình là học sinh giỏi, như một thùng trứng gà công nghiệp.
Khi Hirose đang nghĩ về việc ấy và nhìn quanh lớp học, ánh mắt anh đột nhiên dừng lại.
Một học sinh ngồi phía cuối lớp đã thu hút sự chú ý của anh. Anh cũng không hiểu vì sao mình cứ nhìn cậu bé ấy mãi như thế.
Gương mặt nó không có gì đặc biệt, không xấu, nhưng cũng không có gì thu hút. Nó không nhìn về hướng khác, nhưng gương mặt lại không hề có chút cảm xúc gì. Nó cũng như những đứa học sinh khác, vô cảm nhìn về phía bục giảng, nơi thầy Goto đang đứng, nhưng cái cảm giác nó đem lại hoàn toàn trái ngược với đứa xung quanh. Hirose cũng không biết đứa trẻ ấy khác biệt như thế nào, nhưng nó có gì đó rất khác.
Nói miễn cưỡng có lẽ do khí chất của nó. Hirose cảm thấy như bầu không khí xung quanh đứa trẻ ấy rất khác với những đứa khác.
Quả là một đứa trẻ kỳ lạ. Hirose thầm nhủ khi anh nghe thấy tiếng thầy Goto gọi mình. Thầy đang vẫy tay nên Hirose vội gác cái suy nghĩ ấy qua một bên và bước tới.
oOo
Thầy Goto nói hy vọng mọi người có thể hòa thuận suốt năm rồi giới thiệu Hirose với học sinh trong lớp.
“Đây là thầy Hirose, giáo viên tập sự. Các em hãy cư xử lễ độ với thầy nhé.”
Thầy Goto vừa dứt lời thì đâu đó trong phòng học đã vang lên tiếng cười khúc khích.
Thầy Goto đưa quyển sổ điểm danh cho Hirose. “Còn điểm danh nữa thôi là xong, thầy đi nghỉ một lát.” Thầy Goto vừa nói vừa chỉ về phía chồng sổ điểm danh đặt trên bục giảng.
Hirose gật đầu, thầy Goto khẽ chặt lưỡi rồi r���i khỏi lớp, có vẻ như thầy sẽ không xem Hirose sẽ làm thế nào trong buổi lên lớp đầu tiên.
“Thầy là Hirose. Xin các em giúp đỡ.”
Sau khi chào hỏi xong, Hirose làm theo hướng dẫn của thầy Goto và phát cho mỗi học sinh một quyển sổ. Anh đưa cho những đứa bàn trên một xấp rồi lặng lẽ nhìn chúng chuyền xuống dưới, mắt vẫn không rời những gương mặt ấy. Ánh mắt anh lại dừng ở nó.
Đứa trẻ ấy cầm lấy quyển sổ do một đứa bàn trên đưa xuống rồi lại chuyền xấp còn lại cho đứa ngồi đằng sau, không hề phát ra một âm thanh gì, cứ như bầu không khí xung quanh nó hoàn toàn bất động.
Nếu nó chỉ đơn giản là một thiếu niên yếu ớt và mảnh khảnh, có lẽ Hirose cũng không chú ý đến. Nhưng ngược với vẻ bề ngoài của mình, phản ứng của nó lại tràn đầy sức sống, có lẽ phần thắt lưng thẳng tắp của nó đã tạo cho người ta cảm giác ấm áp và khỏe mạnh chỉ người lớn đem lại. Tuy nhiên, nó lại không hề gây ra bất âm thanh nào khi cử động, cũng như gương mặt không hề lộ ra chút cảm xúc gì. Nhìn bề ngoài, nó khiến người ta có cảm giác mình sẽ hành động bốc đồng, nhưng thật ra, nó hoàn toàn không nghĩ đến những ấy. Chính cái sự khác biệt ấy đã thu hút ánh mắt của Hirose.
Khi nhận lại số sổ còn thừa, anh nghĩ đứa trẻ ấy quả thật thú vị.
Lúc Hirose điểm danh, nó trả lời với một giọng vô cùng trầm tĩnh, “Takasato”. Giọng nói của mấy đứa nhỏ mười mấy tuổi thường rất sống động, nhưng âm thanh này lại đem đến cho Hirose cảm giác đơn điệu.
“Vậy có thể đọc là Takasato à?” Hirose cẩn thận hỏi lại vì anh muốn được trò chuyện cùng nó nhiều hơn.
Tuy nhiên, đứa trẻ ấy chỉ trả lời đơn giản: “Vâng.”
1.4
Khi Hirose trở về văn phòng khoa Hóa thì thầy Goto đang rót cà phê vào một cái tách. Sau khi anh đưa lại sổ điểm danh, thầy chỉ về phía bàn làm việc của mình và lấy từ trong tủ ra chiếc cốc khác. Hirose để sổ điểm danh lên bàn và mở tủ sách, lôi ra một chiếc lọ giữa đám dụng cụ giảng dạy linh tinh. Anh biết ở đó có hai lọ, một đựng đường, còn lại đựng bột kem.
“Còn nhớ à?”
“Làm sao em quên được.” Hirose trả lời.
Thầy Goto cười, chiếc lọ trong hơn có nhãn nhưng trên đó chẳng viết gì đựng đường còn chiếc lọ màu nâu đựng bột kem. Đối với một đứa học sinh đã từng suốt ngày trốn trong văn phòng khoa Hóa như Hirose, sao anh có thể quên được những việc này chứ. Hirose đặt chiếc lọ cùng cái muỗng múc thuốc lên bàn, thầy Goto liền đưa anh chiếc cốc. Anh lấy cái khăn tay của mình ra rồi bọc quanh chiếc cốc, nếu không làm thế thì khi đổ nước sôi vào sẽ nóng đến bỏng tay. Nếu muốn thưởng thức trà hay cà phê trong văn phòng khoa Hóa thì phải có một chiếc khăn tay.
“Giống như hồi trước.”
“Ừ.” Thầy Goto trả lời một cách vô cùng hài lòng khiến Hirose cảm thấy buồn cười.
“Gần đây có học sinh nào hay đến đây không ạ?”
“Chẳng có đứa nào ở đây cả ngày lẫn đêm như em, nhưng cũng có mấy đứa đến đây vào buổi trưa và làm mấy việc vặt vãnh.”
Hirose bật cười. “Đại loại như nấm mì gói trong cốc và làm kem que bằng ống nghiệm.”
“Ừ.” Thầy Goto cười. “Mấy đứa như thế thời nào chẳng có, nhưng em là học sinh đầu tiên trở lại với tư cách là thực tập sinh.”
Hirose mỉm cười. Thời anh còn theo học, cũng có vài học sinh khác hay đến văn phòng khoa này, ngày ấy, chúng cũng như anh. Sau khi ra trường, lựa chọn con đường riêng cho mình, nhà nghiên cứu, bác sĩ, diễn viên hay chính trị gia gì đó, nhưng không một ai trong những học sinh năm xưa ấy quyết định trở thành giáo viên cả.
“Bắt chước thầy giáo thấy thế nào?”
“Cũng khó diễn đạt bằng lời.”
“Cái lớp ấy cũng không có gì thú vị.”
Hirose cúi đầu và cười, rồi anh bất chợt nhớ ra. “À, có một đứa không giống như những đứa khác.”
“Em cũng nhận ra à.” Thầy Goto trả lời. “Takasato phải không?”
Hirose gật đầu, thầy Goto mỉm cười. “Em cũng có mắt nhìn người đó. Khi thấy Takasato, thầy có cảm giác y như Hirose vậy.”
“Nhưng thằng bé ấy khác em một chút, đúng không ạ?” Hirose hỏi.
Thầy Goto nhìn về phía cửa sổ. “Ừ, khác, bởi vì trông em lúc nào cũng căng thẳng. Nhưng cái vẻ đặc biệt ấy thì y đúc.”
“Dễ thấy vậy sao?”
“Tất nhiên rồi. Cả em và Takasato đều rất đặc biệt.”
“Ý thầy là chướng mắt?”
Thầy Goto bật cười. “Thằng bé ấy cũng tham gia Câu lạc bộ Mỹ thuật. Tất cả tranh nó vẽ đều có một độ sâu đặc biệt. Quả là một đứa trẻ kỳ lạ.”
“Thật ư?”
“Nói đến kỳ lạ, nhiều khi nó còn kỳ lạ hơn cả em. Em rất dễ nắm bắt.” Gương mặt thầy Goto trầm lại đến khó tả. “Cả em và thầy đều không giống như người khác, nên thầy có thể dễ dàng hiểu được em, nhưng Takasato thì khác.”
“Vậy là Takasato không giống người bình thường.”
“Không hẳn thế. Cả em và thầy đều lựa chọn cư xử một cách bất thường, nhưng Takasato không như thế. Bản chất của thằng bé đó hoàn toàn khác người, vì thế nên chúng ta cảm thấy nó khác thường.”
“Thầy cũng hay quan sát nó ư?”
“Ừ.” Thầy Goto cười khan. “Cái cảm giác nó mang lại hoàn toàn khác với những đứa học sinh khác, phải không?”
“Vâng ạ.”
“Thay vì kỳ lạ, có lẽ nó là một kiểu người khác.” Giọng thầy Goto có chút lo lắng.
“Có vấn đề gì sao?”
“Không có vấn đề gì. Takasato khác em, nó là một đứa trẻ ngoan, suy nghĩ chín chắn và cũng rất biết hòa đồng.”
“Lúc ấy em quả thật đã làm phiền thầy rất nhiều.”
Cái kiểu nói chuyện lịch sự và đàng hoàng này của anh khiến thầy Goto bật cười. “Nó tựa như mắt bão vậy. Bản thân rất trầm tĩnh, nhưng tất cả những gì quanh nó đều hỗn loạn. Rồi em sẽ sớm nhận ra thôi. Cái lớp ấy vốn cũng không có gì đặc biệt, em cứ làm theo cách bình thường là được.”
“Tại sao ạ?”
“Bởi vì Takasato ở đó.” Thầy Goto đứng dậy.
Ông kéo rèm ra, để ánh nắng mặt trời tràn vào phòng rồi lại chùi tay vào chiếc khăn đeo bên hông và đứng trước giá vẽ.
Toàn bộ ngôi trường nằm gọn trong một bức tranh cỡ mười, trông khá giống thật ngoài việc được tô bằng màu sáng hơn. Vài học sinh trông giống như quái vật hay yêu tinh bận đồng phục cũng được vẽ vào. Một số đứa đang trốn sau những thân cây với những gương mặt già cỗi, một số đứa ngồi trên ghế trông như những con cóc, còn một số đứa khác thì làm những động tác kỳ quặc. Thoạt nhìn, trông bức tranh thật u tối, nhưng xem kỹ hơn, trông nó lại hài hước và ấm áp một cách kỳ lạ.
Lần đầu tiên nhìn thấy tranh của thầy Goto, Hirose đã rất ngạc nhiên, nhưng anh lập tức nhận ra bức vẽ này quả đúng phong cách của thầy. Thầy Goto thường vẽ cảnh trường học, nhưng ít khi nào có người xuất hiện trong những bức tranh của ông. Hirose cũng biết việc thầy Goto từng ký vào một bức gọi là ‘Hội nghị’, vẽ những con thú ăn bận kỳ lạ đang ngồi trong phòng giáo viên uống rượu, kết quả là thầy hiệu trưởng đã có một vài lời với ông.
Cũng không phải do thầy Goto khuyến khích mà Hirose lựa chọn Câu lạc bộ Mỹ thuật làm hoạt động ngoại khóa. Có lẽ do anh thích cái cảm giác được nhìn thầy đối diện với cái giá vẽ. Anh đã từng muốn vẽ được như thầy, nhưng rồi lại cay đắng nhận ra mình không hề có cái năng khiếu ấy.
Thấy thầy Goto bắt đầu nhìn về phía bức tranh đang vẽ giữa chừng, Hirose im lặng ngồi xuống bàn và mở báo cáo thực tập của mình ra.
oOo
Sáng ngày hôm sau, Hirose theo thầy Goto đi khắp nơi, nhưng sau buổi trưa, anh phải đứng trên bục giảng, mồ hôi thì cứ túa đầy ra. Thời gian thực tập chỉ kéo dài hai tuần ngắn ngủi, chính xác hơn là mười hai ngày. Hirose hòa mình vào công việc một cách vô cùng phấn khởi, sau hai ngày, anh đã đứng lớp đến sáu tiết, cái không khí hồ hởi của Đại hội Thể thao cũng đã bắt đầu tràn khắp trường.
* *
Những bông hoa trắng nở rộ.
Trước mắt cậu là một bình nguyên lớn. Bầu trời trải dài như một quả cầu bị cắt đôi còn đồng hoa này tựa như một chiếc đĩa phẳng kéo dài đến vô tận. Cậu chưa từng thấy nơi nào bằng phẳng đến tận chân trời như thế này.
Cậu nhìn quanh. Cánh đồng như tạo thành một vòng tròn, màu xanh biếc cứ kéo dài mãi, không hề có chút đổi thay.
“Đẹp quá!”
Cậu tự nói với bản thân mình, rồi chợt nhận ra mình không biết nơi này. Đây là nơi nào? Cậu cảm thấy nó không ở gần nhà cũng như trường tiểu học, cũng không hề nằm trên con đường đến trường quen thuộc.
Cậu ngẩn đầu lên. Bầu trời đầy những màu sắc phức tạp hòa quyện, đó là lần đầu tiên cậu nhìn thấy màu trời như thế.
Phần lớn mang màu xanh sáng, hơi sáng hơn bình thường một chút, hoặc cũng có thể do được bao phủ bởi một lớp mây mỏng, ở giữa phản chiếu ánh hồng và xanh lục.
Cậu thẫn thờ nhìn bầu trời ấy, trong lòng chợt nghĩ lần tiếp theo vẽ bầu trời, mình sẽ dùng màu xanh dương, nhưng phải sáng hơn. Sau khi đám mây mỏng chậm chạp trôi đi, bầu trời bắt đầu chuyển sang màu bình minh.
Sau khi nhìn trời một lúc, cậu quay sang xung quanh và tự nhủ.
Không được bỏ quên mặt trăng.
Mặt trăng, trăng tròn xanh xao và trắng bạc mọc lên giữa bầu trời buổi sáng, mang sắc màu tuyệt đẹp, xung quanh là những ngôi sao lấp lánh mờ ảo. Cậu nhìn theo những chòm sao và thấy một mặt trăng thứ hai.
Cậu vô thức mở to mắt.
Còn một mặt trăng nữa ư?
Sau khi đếm cẩn thận, cậu thấy có sáu mặt trăng treo trên trời, mỗi mặt trăng đều có kích cỡ khác nhau nhưng mặt trời không hề xuất hiện.
Mọi thứ thật kỳ lạ nên cậu cứ nhìn mãi lên trời. Không khí không lạnh, cũng không nóng, những cơn gió thổi một cách hiền hòa, mang đến hương thơm nhè nhẹ của hương hoa hòa cùng vị cỏ.
Cậu hít vào thật sâu rồi nhìn xuống đất. Bãi cỏ xanh mượt phủ lấy mặt đất bằng phẳng, cao đến đầu gối cậu. Những cành hoa mọc thẳng tắp xen lẫn lá nhỏ với những bông hoa trông như móng tay mọc trên đỉnh. Nhìn gần, hoa khá thưa thớt, nhưng từ xa, tất cả như một dải mờ mịt màu trắng.
Một ngọn gió thổi lên. Những ngọn cỏ và hoa trắng cũng đung đưa theo cơn gió. Khi những bông hoa đụng vào nhau, âm thanh của chúng phát ra tựa như tiếng thủy tinh va chạm. Những ngọn cỏ mềm mại cũng khẽ cọ vào chân cậu.
Rồi cậu nhận ra mình không đứng trên một đồng cỏ mà là một đầm lầy. Đôi chân nhỏ bé chìm trong làn nước trong suốt cao đến khuỷu chân. Cậu chưa từng nhìn thấy loại nước này bao giờ, làm sao lại có thể có cái thứ nước không hề gợn sóng cũng như chảy đi như thế này chứ. Kỳ lạ hơn là chân cậu không hề cảm thấy ướt, cậu thử đưa chân lên, từng giọt nước nhỏ xuống như những hạt thủy tinh trong suốt và lấp lánh, không còn một hơi ẩm nào vươn trên da.
Dưới đáy nước là đá xám, chẳng trách mọi thứ lại bằng phẳng thế này. Đá hình tứ giác được xếp ngay ngắn bên dưới, phía trên là nước. Cỏ mỏng mọc lên từ khoảng trống giữa những tảng đá. Một vài con cá nhỏ đang bơi và búng nhẹ dưới bóng của những ngọn cỏ.
Cậu cười thật tươi, thò tay xuống nước định bắt lên vài con. Nhưng ngược lại với bàn tay đuổi theo chúng, cá không những không bơi đi mà cứ bu về phía những ngón tay cậu, càng nhúc nhích thì chúng càng đến gần.
Đây là nơi nào?
Cậu dùng cả hai tay múc lên một ngụm nước lẫn cá và nhìn quanh, chợt hiểu ra rằng không thể có một nơi như thế này tồn tại. Dòng nước chảy xuống từ kẽ tay còn cá thì nhảy lên và rơi xuống nước, làm cậu hơi nhột.
Đẹp quá.
Cậu vô ý gật đầu, nhìn quanh rồi bắt đầu bước tới. Bên mỗi bước đi, những bông hoa vẫn cứ đung đưa, phát ra thứ âm thanh giòn tan bên chân cậu.
Cậu không biết mình đã đi bao lâu, chỉ đơn giản cảm thấy là xa lắm rồi. Nhưng cho dù đi xa đến đâu thì cậu cũng không cảm thấy chút mệt mỏi nào. Cứ thế, khung cảnh trào ngập những bông hoa quen thuộc này không bao giờ làm cậu nhàm chán cho dù có ngắm chúng nhiều đến đâu. Cậu vẫn đi như vậy, lòng cảm thấy vô cùng hài lòng và hạnh phúc. Chốc chốc lại có một con chim nhỏ từ phương nào bay đến đậu trên đầu hoặc vai cậu, vui đùa một lát rồi lại bay đi.
Nhìn về phía những cánh chim ấy, cậu nhận ra đồng hoa này cuối cùng cũng đã có điểm dừng. Bên kia những bông hoa trắng là một dải màu xanh lục, có lẽ là một con sông chảy qua.
Cậu đi về phía con sông ấy, nhưng đi mãi, đi mãi vẫn không đến gần được, tựa như mãi mãi không bao giờ đuổi kịp dòng nước chảy vậy. Cậu cứ vừa đi vừa chơi với cá dưới chân, chim trên trời, cuối cùng cũng đến gần được con sông.
Từ phía xa, trông nó chỉ như một con suối nhỏ nhưng khi lại gần, cậu nhận ra rằng con sông này rất lớn. Bờ bên kia xa tít tắp, còn đáy thì sâu thẳm. Những tảng đá dưới chân bất chợt dừng lại, phía trước, ngoài mặt nước xanh biếc ra thì không còn gì nữa. Cậu nhìn gần hơn, nhưng màu nước ở đây vẫn sâu thẳm một cách đều đặn, chẳng có chỗ nào nông hơn chỗ nào, tựa như tất cả mọi nơi dưới lòng sông đều bằng phẳng.
Cậu dừng lại trước sông sâu rộng ấy, cậu không biết bơi. Tuy nước không chảy xiết nhưng cậu không nghĩ mình có thể vượt qua được con sông lớn thế này.
Cậu thất vọng nhìn quanh. Từ phía xa, một tia sáng lóe lên, khi nhìn kỹ hơn thì cậu thấy đó là một cây cầu bắc lên từ phía trên (hay dưới) sông.
Câu cầu ấy trong suốt như được làm bằng pha lê. Cậu nở một nụ cười rồi hướng về bờ sông, đi về phía cây cầu ở phương xa ấy.
Chú thích
↑ Điểm hensachi: Điểm số được xác định trên điểm thi của học sinh và độ lệch chuẩn của chúng, phản ánh xếp hạng học lực học sinh. Để vào trường càng tốt thì điểm hensachi phải càng cao, ví dụ, để vào được Đại học Waseda thì một học sinh phải có điểm hensachi là 72 điểm.
------------------------------
2.1
Hôm đó là ngày thực tập thứ ba. Sau khi ba tiết đứng lớp, Hirose cũng vừa hoàn thành báo cáo thực tập của mình. Khi anh định ra về thì học sinh lớp 11-6 đến tìm thầy Goto, chúng nó bảo khi đang đem mấy tấm bảng vào để chuẩn bị cho Đại hội Thể thao thì vô ý làm vỡ cửa sổ. Anh vội vàng chạy đến phía sau Nhà Thể dục, mấy đứa học sinh vẫn đang dọn dẹp theo hướng dẫn của thầy Goto. Tất cả những học sinh ở lại chuẩn bị cho Đại hội Thể thao đều đã tụ tập về đây. Chỉ cần còn học sinh ở lại trường sau giờ học, nhất định thầy Goto sẽ ở lại cùng, mà nếu thầy đã ở lại thì Hirose cũng không ra về.
Sau khi suy nghĩ một lúc, Hirose liền gọi cho giáo viên phụ trách khoa. Khi đang quay lại văn phòng thì anh thấy vẫn còn học sinh trong lớp 11-6. Không có đứa nào xin ở lại sau giờ học cả, anh lo lắng nhìn vào trong lớp và nhận đó không ai khác ngoài Takasato.
Hirose cũng không biết đứa trẻ ấy làm gì trong đó, cũng như nó nghĩ gì khi nhìn vào khoảng không. Nó cứ ngồi đấy, hai tay đặt trên bàn, nhìn về phía cửa sổ, cảm giác duy nhất nó tạo cho người ta chính là nó chỉ đơn giản ở đó.
“Em chưa về à? Có chuyện gì sao?” Hirose đứng ở cửa lớp hỏi vọng vào.
Takasato chợt quay lại và khẽ gật đầu. “Vâng.”
“Ở lại chuẩn bị à?” Hirose như muốn tìm một chủ đề gì đó để trò chuyện cùng Takasato nên anh liền đi vào phòng học.
Takasato nhìn về phía Hirose và trả lời: “Không ạ.”
Vừa lúc đó, Hirose có cảm giác có thứ gì đó đang quấn lấy chân Takasato, anh dừng lại và nhìn về phía bóng đen thoáng qua ấy nhưng nó đã nhanh chóng biến mất, nhanh đến nỗi anh không kịp nhìn ra đó là gì, nhưng trông nó có vẻ giống như một con vật. Hirose ngây người nhìn về hướng bóng đen biến đi, nơi đó đã không còn dấu vết gì.
Em có nhìn thấy không? Hirose muốn hỏi thế nên anh nhìn về phía Takasato, nhưng ánh mắt cậu học sinh ấy vẫn vô hồn như trước. Hirose cảm thấy hơi khó xử nên nhìn về phía góc phòng. Cái hơi nóng mùa trè đã tràn khắp lớp học.
Hirose bật cười rồi lại nhìn Takasato, lúc này đã quay lại nhìn anh. “Ở lại làm bài cho xong à?”
“Không ạ.”
Lại là những câu trả lời của Takasato ngắn gọn. Hirose nhìn đôi mắt đang nhìn lại mình, gương mặt Takasato vẫn vô cảm như trước, yên bình như một người đã mới thức dậy.
“Em là Takasato, phải không?” Hirose xác nhận lại cái tên vốn đã khắc sâu trong tâm trí anh.
Takasato khẽ gật đầu.
“Em không tham gia câu lạc bộ nào à?”
“Không ạ.”
“Tại sao vậy?” Hirose cố tình hỏi để nhận được câu trả lời dài hơn.
Takasato nghiêng đầu và hồi đáp bằng một giọng trầm tĩnh hơn cái tuổi mười bảy của cậu. “Em không có hứng thú với bất cứ câu lạc bộ nào.”
Tuy Takasato đã nói nhiều hơn nhưng vẫn có điều gì không hợp lý lắm. Đứa trẻ ấy không hề tỏ ra lạnh lùng trước Hirose, nhưng nó cũng không hề đón chào anh, nó chỉ đơn giản trả lời vì nó phải trả lời, chỉ có thế.
“Vậy em ở đây làm gì? Không phải thầy đang chất vấn em, chỉ là thầy có chút tò mò.”
Takasato hơi nghiêng đầu trả lời: “Em nhìn ra ngoài.”
“Chỉ nhìn ra thôi sao? Em đang nghĩ gì thế?”
“Không có gì.”
Thật là một đứa trẻ kỳ lạ. Hirose không cảm thấy có gì hấp dẫn ngoài cửa sổ, nhưng anh vẫn nhìn về phía ấy. Từ góc độ này, anh chỉ thấy một phần mái Nhà Thể dục và chân trời xa xôi, như một tấm bàn làm từ cỏ xanh. Có lẽ tất cả những gì Takasato nhìn thấy khi ngồi đây chính là bầu trời.
“Chỉ có mỗi bầu trời.”
“Vâng.”
Takasato cũng quay về phía cửa sổ, theo góc nhìn ấy, có vẻ như cậu chỉ nhìn bầu trời. Thời tiết bên ngoài khá tốt dù đã sang tháng chín, trên trời không hề có một gợn mây đen. Bầu trời màu xanh lạnh lẽo không một áng mây ấy cứ kéo dài mãi.
“Trông chẳng có gì hấp dẫn cả.”
Giọng điệu của Hirose có vẻ thắc mắc nhưng Takasato vẫn không trả lời, khóe miệng cậu khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười yếu ớt.
Bỗng dưng, Hirose cảm thấy khó chịu, nhưng anh vẫn không muốn trời khỏi đây nên đành hỏi Takasato vài câu vô nghĩa. Cậu định tham gia môn nào trong Đại hội Thể thao? Cậu có thích thể thao không? Ở trường có vui không? Cậu thích nhất môn gì? Giáo viên chủ nhiệm năm lớp 10 của cậu là ai? Cậu học cấp Hai trường nào? Gia đình cậu có bao nhiêu người?
Takasato nhìn thẳng vào mắt Hirose rồi trả lời mọi thứ thật gọn gàng. Cậu cũng chưa biết sẽ tham gia môn nào? Cậu không thích nhưng cũng không ghét thể thao. Cậu không cho việc đi học là đáng chán nhưng cũng chẳng giỏi môn nào… Tất cả câu trả lời đều ngắn gọn và đơn giản.
Takasato cũng không nói thêm gì ngoài những điều được hỏi và cũng không hỏi gì về Hirose. Mỗi khi được hỏi về một điều gì đó, cậu sẽ trả lời, nhưng nếu không có câu hỏi nào được đặt ra, cậu chỉ im lặng. Cậu không tỏ vẻ gì bị Hirose làm phiền nhưng cũng không hứng thú với cuộc trò chuyện này.
“Nói thế này có chút khiếm nhã, nhưng thầy thấy em hơi kỳ lạ. Có ai nói với em điều đó chưa?”
Hirose biết câu hỏi này có vẻ bất lịch sự nhưng anh không thể không hỏi. Kết quả, anh lại nhận được một câu trả lời vô cùng ngắn gọn và đơn giản, “Vâng.”, không một chút xúc cảm.
“Thầy cũng nghĩ vậy.” Hirose mỉm cười.
Takasato lại khẽ cười, cái nụ cười xã giao của những người lớn. Biểu lộ của cậu không hề giả tạo nên cũng không khiến người đối diện cảm thấy khó chịu nhưng vẫn không xua được cái cảm giác làm người khác không thoải mái. Thái độ và giọng nói của cậu đều rất trầm tĩnh, có lẽ khiến người ta cảm thấy như từ một người tràn đầy kinh nghiệm hơn là từ một đứa trẻ tỏ vẻ người lớn so với cái tuổi của mình, nhưng tất nhiên, tất cả những điều này đều không phù hợp với gương mặt tuổi mới lớn của cậu. Sự mâu thuẫn ấy luôn thể hiện trong từng cử chỉ và lời nói của Takasato, khiến Hirose vô cùng thắc mắc.
Cuối cùng, Hirose cũng hiểu được cái sự kỳ lạ mà thầy Goto đã nói đến, đúng hơn là ‘kỳ lạ’ chứ không phải ‘bất thường’. Cậu bé ấy không làm người đối diện cảm thấy ‘khó thở’, mà có lẽ chính xác hơn thì nên gọi là ‘có một cảm giác kỳ lạ’. Anh không thể đọc được suy nghĩ của Takasato nhưng lại cảm thấy dường như trong đầu đứa trẻ ấy không nghĩ gì cả.
“Xin lỗi vì đã làm phiền em.” Hirose nói.
Takasato nở một nụ cười và trả lời: “Không ạ.”
2.2
“Takasato thật sự không bình thường.” Hirose nói khi đang nghỉ trưa trong văn phòng khoa vào ngày hôm sau.
Thầy Goto đã ra ngoài ăn trưa. Có bốn học sinh khác ngồi kế anh. Hirose nhận ra rằng dù là thời nào thì cũng có những đứa cứ ở mãi trong văn phòng khoa, có lẽ chúng cảm thấy quá nhiều hoặc quá ít khi ở lại trong lớp học. Thời Hirose còn học cấp Ba, tất cả những học sinh đến đây đều khá xuất sắc trừ anh. So với lúc ấy, những đứa ngồi bên anh ăn cơm trưa hiện giờ làm anh cảm thấy mình lớn hơn hẳn.
“Vâng, tất cả chúng em đều biết Takasato không bình thường.” Cậu học sinh đang nói bằng cái giọng ngạc nhiên ấy ngẩn đầu lên, tên cậu ta là Tsuiki.
Tsuiki cũng là học sinh lớp 11-6 như Takasato, xem ra cậu ta không phải chỉ mới cắm dùi ở văn phòng khoa này năm nay.
“Ừ, thầy có nói chuyện với bạn ấy hôm qua.”
Không gì thích hợp hơn ăn cơm trong văn phòng khoa, không những sáng sủa mà còn có máy lạnh. Thầy Goto thường hào phóng đãi lũ trẻ trà bằng những chiếc cốc của thầy.
“Thoạt nhìn trông nó có vẻ ôn hòa, đúng không?” Tsuiki nói bằng một giọng mỉa mai.
“Vậy bạn ấy không ôn hòa sao?”
“Có lẽ không.” Câu trả lời của Tsuiki pha chút bất mãn.
Chẳng lẽ còn có cách nhìn khác?
Một đứa học sinh khác tên Iwaki liền nhìn về phía Tsuiki. “Sao vậy?”
“Không có gì.”
Trước câu trả lời cụt ngủn của Tsuiki, Iwaki trông có vẻ thất vọng. Cậu ta là học sinh lớp 11-5 nhưng chọn cùng môn học với lớp 11-6.
“Sao thế? Cậu ghét Takasato à?”
“Không có gì.”
“Nào, nói đi.” Iwaki kiên quyết không bỏ qua chuyện này.
Tsuiki quay mặt qua một bên, tỏ vẻ không muốn trả lời trong khi Nozue học lớp 10 và Hashigami học lớp 12 đều trông rất có hứng thú.
“Thằng đó không đơn giản chỉ là một đứa u ám thôi sao? Đúng là nó tạo cho người ta ấn tượng đầu tiên không tốt, bộ nó lén lút làm gì hả?” Iwaki hỏi.
“Không có gì, chỉ là nó kỳ lạ thôi.” Tsuiki xua đi.
Giọng nói của Tsuiki có vẻ lo âu khiến tất cả mọi người đều cảm thấy e ngại.
“Kỳ lạ là kỳ lạ thế nào?” Hashigami vẫn tiếp tục hỏi.
Tsuiki càng trầm tư hơn khi lẩm bẩm bằng một giọng quả quyết. “Bởi vì nó khác người.”
Ngữ điệu của Tsuiki khiến Hirose phải suy nghĩ, anh nghiêng đầu hỏi: “Nhiều người ghét Takasato lắm à?”
Trông Tsuiki càng khốn khổ hơn. “Em không nghĩ có ai ghét nó.” Sau đó, cậu nhìn Hirose. “Tốt hơn là đừng dính dáng gì đến nó.”
“Tại sao?”
Tsuiki không trả lời.
“Có vấn đề gì à?”
“Chỉ là nó rất khác…”
Iwaki thở dài thất vọng.
“Nó rất ít nói. Bộ giờ này vẫn còn nạn bắt nạt à?” Iwaki nói một cách trêu chọc.
Tsuiki lại cúi đầu, sau khi ngây người một lúc, cậu nói bằng một giọng rất nhỏ: “Đừng kể cho ai nhé, Takasato từng bị thần ẩn[1].”
Trong khoản khắc ấy, Hirose ngây người không hiểu ‘thần ẩn’ là thế nào? Sau một hồi suy nghĩ, anh nhận ra đó là hiện tượng ‘biến mất’, miệng anh há hốc ra vì ngạc nhiên.
“Thần ẩn? Ý cậu nói là đột nhiên biến mất đó hả?”
Tsuiki gật đầu. “Chuyện xảy ra lúc Takasato còn học tiểu học. Một ngày nọ, nó bỗng dưng biến mất rồi đột nhiên quay trở lại một năm sau đó. Không ai biết nó đã làm gì trong suốt khoảng thời gian ấy.”
“Takasato nói thế nào?”
“Nó chẳng nhớ gì cả.”
“Thật ư?”
Hashigami chồm lên. “Có chắc là không phải bắt cóc không? Vậy là hiện tượng thần ẩn có thật?”
“Có lẽ vậy. Vì thế nên Tasakato học trễ một năm.”
“Buồn cười.” Hashigami chế giễu. “Là tin đồn thôi chứ gì!”
Tsuki quắc mắt nhìn Hashigami. “Là thật. Chuyện này ai cũng biết cả, vì thế nên Takasato mới kỳ lạ như thế.”
Hirose thật sự kinh ngạc. Vùng này đã phát triển rất nhanh trong mấy năm qua nhưng anh nghe nói Tsuiki và Takasato đã sống ở đây từ lúc nó vẫn còn chưa phát triển. Chuyện ‘ai cũng biết’ không có nghĩa là ‘ai trong trường cũng biết’ mà là ‘ai trong vùng cũng biết’, đến đây thì mọi chuyện vẫn còn nghe bình thường, nhưng ‘biến mất’…
“Vô lý!” Iwaki kết thúc buổi trò chuyện.
Nhưng từ ‘thần ẩn’ đã khắc sâu vào trong tâm trí Hirose. Anh vốn không quan tâm đến mấy chuyện thần bí cũng như hiện tượng siêu nhiên, nhưng không có nghĩa là anh hoàn toàn không tin vào chúng. Chưa kể chuyện này liên quan đến Takasato, anh không thể xem nó như chủ đề tán gẫu như Iwaki.
2.3
Sau tiết thứ năm là hoạt động ngoại khóa. Thầy Goto đã trở về sau bữa trưa, Hirose đi cùng thầy đến Phòng Mỹ thuật, phần lớn học sinh cũng đã đến.
Tuy gọi là hoạt động ngoại khóa nhưng nó cũng không khác gì Câu lạc bộ Mỹ thuật. Sau khi thầy Yoneda phát biểu qua loa vài lời, lũ học sinh rời phòng thành từng nhóm hai ba đứa. Hirose biết rằng cho dù kẹp theo tập vẽ dưới cánh tay nhưng phần lớn chúng sẽ không đến thư viện hay phòng trống học bài mà đến đâu đó chơi. Các giáo viên cũng im lặng trước những việc này, lũ học sinh cũng hiểu, phần lớn đều đã tham gia những câu lạc bộ khác. Tất nhiên, những học sinh ở lại đều là những đứa thật sự yêu thích hội họa. Chúng bắt đầu vẽ trong khi thầy Goto và thầy Yoneda dùng thời gian rảnh rỗi này để tán gẫu.
Takasato cũng ở lại. Cậu lấy giá vẽ của mình ra và đặt vào một góc phòng, rồi rút ra một tấm vải từ ngăn kéo chung.
“Tranh sơn dầu à?” Hirose đoán.
Có lẽ vì đứa trẻ ấy tạo ra một bầu không khí tương tự như màu nước. Bằng những động tác quen thuộc, Takasato lấy ra một cái hộp vẽ và mở ra. Hirose lặng lẽ đi về phía cậu.
Sau khi đến chỗ có thể nhìn toàn bộ bức tranh, anh chào Takasato. Nghe thấy tiếng Hirose, Takasato quay lại và nhận ra anh, cậu khẽ gật đầu, gương mặt vẫn tươi cười như hôm trước. Hirose vẫy tay lại rồi nhìn về phía bức tranh của Takasato, ngắm nhìn cậu vẽ.
Bức tranh này quả khiến người ta cảm thấy rất sâu. Hirose cứ hết nhìn Takasato lại nhìn bức vẽ như thế.
“Có lẽ hơi bất lịch sự…” Hirose không biết phải nói thế nào, nhưng anh không thể không hỏi. “Nhưng đó là gì thế?”
Những sắc màu trên bức tranh ấy không hề có chút trật tự nào, tất cả chỉ là màu sắc. Có lẽ anh thấy vài đường nét mờ ảo, nhưng đó là khi anh tập trung để đoán xem đó là gì, rồi lại nhận ra đường nét của chúng quá mờ nhạt, mờ nhạt đến nỗi không thấy được đó là hình thù gì. Màu sắc được dùng vô cùng phức tạp, tuy phần lớn là màu sáng nhưng lại đem đến cái cảm giác mờ đục, khó mà nói được chúng có đẹp hay không. Cho dù chỉ là màu sắc hòa vào nhau thì bức trang này cũng không thể khiến người ta cảm thấy đẹp, cũng như không hề có kết cấu gì.
“Là khung cảnh gì đó à?” Hirose khỏi một cách bối rối.
Mắt Takasato mở to. “Vâng.” Cậu khẽ cười, một nụ cười gần giống với nụ cười thật sự.
“Ở đâu thế?” Hirose tỏ vẻ hứng thú.
Takasato lắc đầu. “Em không nhớ.”
“Không nhớ mà em vẫn vẽ được ư?” Hirose hỏi một cách lịch sự.
Takasato ngần ngại, tỏ vẻ tập trung hơn rồi gật đầu. “Vâng.”
“Tại sao?”
“Em nghĩ, nếu vẽ được thì em sẽ nhớ ra.”
“Ra vậy.” Hirose trả lời.
Đứa trẻ này luôn khiến anh ngạc nhiên. Hirose rời khỏi chỗ Takasato, lòng đầy ngổn ngang, anh chợt nhớ ra những lời của Tsuiki, cậu ấy đã từng biến mất và bỗng dưng xuất hiện trở lại một năm sau đó, chẳng nhớ gì.
Hirose quay lại nhìn Takasato, anh thật sự muốn hỏi liệu đó có phải khung cảnh cậu đã từng thấy qua trong thời gian bị biến mất không, nhưng lại lập tức ngăn mình lại. Anh không thể hỏi một điều mình chưa cân nhắc cẩn thận cũng như không thể hoàn toàn tin vào điều Tsuiki nói, mà cho dù chuyện ấy đáng tin thì cũng không nên hỏi một câu khiếm nhã như thế.
“Đúng là kỳ lạ.” Hirose lẩm bẩm.
Nếu Takasato ta thật sự biến mất và không nhớ được những gì xảy ra trong khoảng thời gian ấy, giống như một người tự quên đi phần ký ức về khoảng thời gian đau khổ của mình. Nhưng Takasato vẫn mong muốn nhớ lại, điều đó khiến Hirose ngạc nhiên.
Con người là một sinh vật rất dễ bị tổn thương. Cái giọng điệu của Tsuiki tiêu biểu cho việc ấy. Takasato từng biến mất nên cậu ấy hơi kỳ lạ, và vì khác người nên cậu ấy không thể làm người khác có cảm giác tốt về mình.
Nếu một người cố tình giấu đi những điều mình yêu và ghét thì người khác vẫn cảm nhận được những thứ ấy. Nhưng Takasato không hề để tâm đến những việc như vậy. Cậu ấy có thật sự muốn xóa đi cái danh mình đã từng ‘biến mất’ không? Cậu ấy có từng nghĩ sẽ hoàn toàn vứt bỏ cái quá khứ ấy không? Cậu ấy có từng mong muốn hoàn toàn quên đi những việc đã qua không? Và liệu sự việc được gọi là ‘biến mất’ ấy có thật sự tồn tại không?
oOo
Suốt buổi học, Takasato cứ im lặng vẽ. Lâu lâu cậu lại dừng lại, dường như suy nghĩ một chút rồi vẽ tiếp hoặc đơn giản là lấy thêm màu. Điều duy nhất Hirose có thể hiểu về bức tranh này, khi anh nghĩ lại, là nó rất quan trọng với Takasato.
2.4
Tiết thứ năm của ngày thứ năm kể từ khi Hirose bắt đầu thực tập là giờ tự học, tất nhiên, chủ đề lần này là Đại hội Thể thao chỉ còn một tuần nữa là đến. Sau vào lời cảnh báo đơn giản, tất cả những việc học sinh lớp 11-6 phải làm chỉ là đứng qua một bên và lắng nghe lớp trưởng phân công công việc.
Vì không có giáo viên trên bục giảng nên cả lớp đều nói chuyện riêng khi buổi họp diễn ra. Đến khi mọi người phải quyết định xem sẽ tham gia môn nào và phân công nhiệm vụ ra sao thì cả lớp đã thành cái chợ.
Hirose đứng đằng sau quan sát toàn bộ lớp học. Takasato không tham gia trò chuyện, cậu bị cô lập khỏi phần còn lại của lớp, tựa như không khí xung quanh cậu hoàn toàn khác biệt. Không ai đến trò chuyện cùng cậu cũng như cậu không hề chủ động bắt chuyện với những học sinh khác, cậu cứ ngồi đó, quan sát mọi người bàn bạc. Thái độ của những học sinh khác cũng giống như cậu không hề tồn tại.
Sau khi cuộc họp đi đến hồi kết, tất cả môn thi và người tham dự đều đã được quyết định, trưởng ban tổ chức Gotanda đếm tên và số lượng học sinh tham gia mỗi môn trên bảng để xác nhận lại và bất chợt nhận ra một việc.
“Hả? Còn thiếu một người.”
Hirose biết đó là Takasato, nhưng anh không nói gì, Takasato cũng vậy. Những đứa ngồi bàn trên liền thì thầm vào tai Gotanda và cậu ngập ngừng nhìn về phía Takasato,
“Takasato, cậu có muốn tham gia môn nào không?” Giọng của Gotanda có vẻ hồi hộp.
Takasato chỉ trả lời đơn giản: “Không.”
Gotanda ngại ngùng nhìn Takasato từ phía bảng đen. “Chỉ còn mỗi môn chạy 200 mét. Được không?”
Takasato gật đầu, gương mặt cậu không hề có chút cảm xúc nào. Gotanda thở phào nhẹ nhõm.
Hirose quan sát tất cả và cố gắng nắm bắt bầu không khí của cả lớp. Takasato bị cô lập, những học sinh khác đều cư xử như cậu không tồn tại. Điều kỳ lạ là đằng sau đó không hề có ác ý, không đứa nào cố tình cô lập cậu cả, tất cả dường như chỉ né tránh Takasato.
oOo
Sau đó, tất cả học sinh rời phòng học và bắt đầu làm những việc mình đã được phân công. Theo thể lệ, học sinh từ lớp 10 đến lớp 12 được chia làm ba đội theo chiều dọc để so tài trong Đại hội Thể thao. Lớp 5 và 6 của các khối lớp được nhập chung lại thành một đội, được gọi là Quân Xanh. Tiết thứ năm của ngày thứ sáu là buổi tự học đối với toàn trường nên học sinh lớp 10 và 12 cũng thường xuyên ra vào lớp.
Thầy Goto ngáp dài khi vừa về đến văn phòng khoa, trong khi đó Hirose vẫn ở lại lớp, lơ đễnh quan sát lũ học sinh vừa làm việc vừa trò chuyện.
“Thầy Hirose, nếu rảnh, thầy có thể giúp chúng em được không?”
Bị gọi như thế nên Hirose đành cười trừ. “Vậy thầy có thể làm gì?”
“Cắt cái này.”
Một học sinh đưa cho anh vài tờ giấy báo, có lẽ để làm mô hình giấy. Takasato cũng ngồi gần đó và đang cắt thứ gì đó theo phân công.
“Ồ, cả thầy Hirose cũng được tuyển vào luôn à?”
Hirose ngẩn đầu lên và thấy Hashigami học lớp 12 đang thò đầu vào.
“Giáo viên thực tập cũng phải làm cả mấy việc này?”
“Dù gì học hành lúc nào chẳng cực khổ… À, ở đây ai phụ trách đội cổ vũ thế?” Hashigami vừa nói vừa nhìn những học sinh còn lại trong lớp.
Một đứa giơ tay lên và Hashigami trao lại danh sách các hạng mục và dặn dò cậu ta sau giờ học phải ở lại trường để trao đổi về việc của đội cổ vũ.
Takasato gật đầu và nhận lấy một mảnh vải. Hashigami liền nhìn về phía cậu. “Cậu là Takasato?”
“Vâng.” Cho dù là giáo viên thực tập hay đàn anh thì thái độ của Takasato cũng không hề thay đổi, gương mặt vô hồn ấy chỉ đơn giản nhìn lại Hashigami.
“À…” Hashigami trả lời, tỏ vẻ thú vị hơn. “Anh nghe nói khi còn nhỏ, cậu đã từng bị thần ẩn?”
Không thể nào diễn tả được sự thay đổi diễn ra khắp phòng học lúc này, Hirose cảm thấy như một sự lo lắng lập tức tràn khắp những học sinh ở đây. Một vài giây sau, mọi người liền quay lại làm việc và tỏ ra như không hề có chuyện gì xảy ra, nhưng tất cả đều mang cái vẻ cố tình nhìn về hướng khác khi phải đối diện với một chuyện khó xử.
“Thật không?” Giọng Hashigami đầy vẻ tò mò.
Takasato chỉ im lặng gật đầu.
“Không phải bắt cóc à? Anh nghe nói cậu không nhớ gì cả, thật ư?”
“Vâng.” Takasato trả lời đơn giản, cậu cũng không hề tỏ vẻ đặc biệt khó chịu.
“Vậy đó gọi là mất trí nhớ phải không? Không thể tin được…”
Đó là lần đầu tiên Takasato nhíu mày. Tuy cậu không tỏ ra không vui nhưng ai cũng biết cậu không thích nhắc đến chủ đề này.
“Bị UFO bắt cóc? Chắc cậu cũng nghe nói gần đây có khá nhiều chuyện như vậy xảy ra. Người ngoài hành tinh thí nghiệm trên cơ thể một vài người xong thì xóa toàn bộ ký ức rồi trả họ về.”
Takasato mở miệng, đó là lần đầu tiên Hirose thấy cậu chủ động trong một cuộc trò chuyện. “Anh nghe ai nói thế?”
Hashigami nghiêng cằm và không do dự nhìn về phía Tsuiki.
Đồ ác độc! Hirose thầm nghĩ.
Bất chợt, anh nghe thấy tiếng ghế ngã mạnh xuống đất và ngây người ra. Anh lập tức quay về phía nơi phát ra tiếng động và nhận ra thái độ của Tsuiki đã hoàn toàn thay đổi, cậu ta cũng đã đứng hẳn lên.
“Không phải tôi.”
Gương mặt kinh hoàng của Tsuiki khiến mọi người kinh ngạc.
“Làm ơn tin tôi đi! Không phải tôi mà!” Tsuiki kiên quyết phủ nhận.
Hashigami cười. “Vậy thì còn ai vào đây?”
“Không phải tôi! Tôi không nói gì cả!”
Takasato cúi đầu, lông mày cậu khẽ nhíu lại, nhưng vẫn không giúp người ta biết cậu đang cảm thấy thế nào.
“Không phải tôi, thật đấy, Takasato.”
Hashigami ngây người nhìn Tsuiki chạy khỏi phòng học.
“Thằng đó bị sao thế?”
Hirose cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tại sao Tsuiki lại bất chợt thay đổi và tỏ ra lo lắng đến thế? Lúc ấy, anh cũng nhận ra nét mặt của những học sinh khác trong phòng cũng vô cùng kỳ lạ.
Tất cả đều hồi hộp, và hơn hết là bọn chúng đều cố che giấu cảm xúc của chính mình, tỏ vẻ như không nhận ra phản ứng kỳ lạ của Tsuiki. Hirose có cảm giác chúng như những người qua đường tỏ ra dửng dưng khi nhìn thấy một tay say xỉn quậy trên xe lửa vì không muốn dây vào hắn.
Hirose nhìn Takasato, gương mặt cậu lại vô cảm như trước. Trông cậu không giống như một đứa bên ngoài tỏ ra ôn hòa nhưng bên trong hung dữ, cũng không giống loại người có thể làm người khác sợ hãi.
“Cái thằng Tsuiki này, càng ngày càng kỳ cục.” Hashigami lẩm bẩm. Nhưng tất cả những học sinh trong lớp đều không chú ý đến cậu.
2.5
Sau giờ học, sân trường vẫn không hề im ắng. Một nhóm học sinh đang đứng trước cửa sổ văn phòng khoa Hóa, chuẩn bị tấm bảng trong khi độ cổ vũ của Quân Đỏ đang tập luyện. Lớp 11-6 cũng đăng ký ở lại trường. Thầy Goto thảnh thơi vẽ còn Hirose thì vùi đầu vào báo cáo thực tập.
Lúc ấy, Gotanda của Hội Học sinh hoảng hốt chạy vào.
“Thầy ơi, có bạn bị thương.”
“Bị thương? Ai?”
“Tsuiki.”
Cây bút trên tay Hirose bất chợt rơi xuống.
“Tsuiki? Có chuyện gì thế? Đánh nhau à?” Hirose lo lắng hỏi, anh vẫn chưa thể quên được cái khung cảnh kỳ lạ khi ấy.
Gotanda thình lình lắc đầu. “Khi chúng em đang làm một tấm bảng thì chân cậu ấy bị cứa vào cưa.”
“Vậy à…” Chẳng hiểu sao Hirose lại thở phào nhẹ nhõm.
“Có nặng không?” Thầy Goto hỏi.
Gotanda nhún vai, ra vẻ không nghiêm trọng lắm. “Chúng em đã đưa bạn ấy đến Phòng Y tế rồi, cũng không chảy máu gì nhiều.”
“Để thầy đến xem xem.” Hirose đứng dậy, thầy Goto cũng gật đầu với anh.
oOo
Khi Hirose và Gotanda cùng chạy đến Phòng Y tế thì Tsuiki đã về nhà.
“Em ấy về rồi ư?”
Nếu Tsuiki có thể tự mình về được thì chắc chắn đó không phải là một vết thương nặng, Hirose cảm thấy như một gánh nặng vừa được dỡ bỏ khỏi vai mình, nhưng anh cũng chưa thể nhẹ nhõm hơn.
Thầy Totoki, bác sĩ trường cười khổ. “Tôi cũng không rõ thế nào, nhưng em ấy đã vội về nhà.”
Bác sĩ trường thời Hirose vẫn còn học tại đây đã về hưu và Totoki là một trong số ít giáo viên Hirose không biết.
“Thật ra vết thương của Tsuiki cũng không nặng đến mức phải khâu lại, nhưng tôi đã khuyên nó nên đến bệnh viên.”
“Vâng…” Hirose vẫy tay với Gotanda, cậu vô thức cúi đầu và rời Phòng Y tế, rồi anh khẽ gật đầu với Totoki. “Đã làm phiền anh.”
“Không có gì.” Totoki mỉm cười, anh chỉ lớn hơn Hirose vài tuổi. “Cậu có muốn uống trà không? Việc thực tập thế nào rồi?”
“Dễ hơn em nghĩ một chút.”
Hirose làm theo hướng dẫn của Totoki và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Totoki pha một ly Chilled Barley một cách thành thục.
“Thầy Hirose dạy môn gì?”
“Khoa học… À, Hóa học.”
“Giáo viên hướng dẫn của cậu là thầy Goto phải không?”
“Vâng ạ.”
“Có khó lắm không? Tôi nghe nói thầy ném tất cả học sinh cho giáo viên tập sự.”
“Vâng.” Hirose cười xã giao khi anh cầm tách trà lên.
“Thầy Totoki cũng ở lại trường làm thêm à?”
“Khi sắp đến Đại hội Thể thao hay Lễ hội Văn hóa, tôi thường phải ở lại cho đến khi học sinh cuối cùng ra về, phòng khi có việc cần.” Totoki mỉm cười và ngồi xuống.
“Mấy đứa trẻ thời này quả thật vụng về. Khi nãy…” Totoki vừa nói vừa nhìn về phía quyển sổ trên bàn. “Tsuiki phải không? Nó nói đã dùng chân chống tấm bảng và cưa một cách cẩn thận.”
“Dùng chân à?”
“Dùng đầu gối để đỡ tấm bảng, kết quả là bị cứa vào ống khuyển. Tất nhiên việc dùng chân đỡ tấm bảng cũng không hay ho gì cho lắm nhưng cái đứa phụ trách cưa cũng thật là hậu đậu.”
Hirose lại nhìn Totoki. “Không phải em ấy tự làm mình bị thương sao?”
“Không. Còn có những đứa khác giúp nó cưa.”
“Anh có biết tên đứa nào cầm cưa không?” Hirose hỏi.
Totoki lại ngập ngừng nhìn quyển sổ của mình. “Chắc là đứa đã đưa nó đến đây. Để xem nào, Seta.”
Hirose thở dài.
“Sao vậy?”
Nghe Totoki hỏi thế, Hirose lập tức lắc đầu. Totoki cúi đầu nghi ngờ. “Thật ra cũng không tệ lắm. Đứa học sinh lớp 12 đến trước đó đã bị cả cây đinh cắm vào bàn tay.”
“Lớp 12?” Hirose có cảm giác bất an.
Totoki gật đầu. “Chẳng biết nó nghĩ gì mà laị đóng cả cây đinh năm phân vào tay mình. Tôi cũng không biết nó dùng loại búa gì mà làm được việc ấy.”
“Nó…”
Totoki lại gật đầu. “Tôi đã đưa nó đến bệnh viện ngay, nó đã dùng một cây đinh cũ, điều tôi sợ nhất.”
“Ý em không phải thế.” Ngay cả Hirose cũng cảm thấy suy nghĩ của mình kỳ lạ, nhưng anh muốn biết tên cậu học sinh đó. “Tên em ấy là gì?”
Totoki tròn mắt rồi mở cuốn sổ ra lần thứ ba. “Hashigami, lớp 12-5.”
2.6
Trên đường quay lại văn phòng khoa, Hirose không biết phải làm thế nào.
Tsuiki và Hashigami, có gì đó không ổn. Tuy biết việc ấy cũng không có ý nghĩa gì đặc biệt nhưng anh vẫn cảm thấy chúng như một chuỗi sự kiện: Hashigami, đứa học sinh nóng nảy, Tsuiki vội chạy đi… và Takasato.
Từ khu văn phòng chính, nơi tọa lạc Phòng Y tế, Hirose về thẳng khu lớp học đặc biệt. Anh chậm chạm leo lên cầu thang của khu văn phòng, đến tầng ba. Một chiếc chiếu nghĩ nằm giữa những bậc thang, nơi cầu thang rẽ hướng lên trên. Trên bức tường chỗ là một cửa sổ lớn, kéo dài từ sàn đến trần nhà. Qua tấm cửa sổ, anh có thể thấy sắc màu hoàng hôn đang phủ xuống toàn bộ ngôi trường. Anh nhìn về phía những phòng học xếp thẳng hàng của khu lớp học bên tòa nhà đối diện, ở giữa là sân trường và bãi cỏ.
Những cánh cửa sổ trên hành lang tạo thành một hàng kính ngang. Phần lớn các lớp học đều còn sáng đèn. Khi đưa mặt đến sát cánh cửa kính, anh có thể nhìn thấu khu lớp học, những học sinh đi lui tới trên hành lang, và ngay cả những đứa đang làm việc phía sau những cánh cửa để mở của các phòng học.
Hirose quên mất tâm trạng lo âu của mình và bất chợt nở một nụ cười vô tư lự. Sự náo nhiệt mà Đại hội Thể thao đem lại đã khiến học sinh toàn trường làm việc như những con chuột chăm chỉ, điều ấy khiến anh mỉm người. Khi đang ngắm nhìn đám học sinh, ánh mắt anh dừng lại ở một đứa trẻ đang đứng gần cửa sổ ở phía cuối tòa nhà.
Giữa không khí bận rộn này, chỉ có một người hoàn toàn không di chuyển. Cậu ta đứng trước một cánh cửa sổ ở tầng hai và có vẻ như đang nhìn xuống bãi cỏ.
Hirose chớp mắt rồi nhắm mắt lại, sau đó mở to mắt ra và nhìn về phía góc xa ở tầng hai ấy. Anh đưa tay lên chùi tấm kính cửa sổ và ghé mắt lại gần hơn.
Khoảng cách giữa hai tòa nhà không đủ gần để anh có thể nhìn rõ mặt cậu học sinh nọ, nhưng Hirose có thể thấy có hai cánh tay đang ôm lấy vai cậu ta, đó là một đôi tay trần. Đồng phục mùa hè vốn ngắn tay nên việc để lộ cùi chỏ là chuyện bình thường. Tuy nhiên, đôi tay trần trên vai như ôm lấy cậu học sinh ấy từ phía sau. Lúc đầu, Hirose cho rằng cậu ta quay lưng về phía ai đó, nhưng anh không thể thấy đầu cũng như phần thân thể còn lại của người ấy, chỉ mỗi đôi tay đặt trên vai cậu học sinh nọ.
Hirose không thể tin những gì mình đang chứng kiến. Tại sao anh không thể thấy đầu và vai của chủ nhân đôi tay kia. Phần trên của nó dường như đặt cả lên vai cậu học sinh nhưng nhìn thế nào cũng không thấy gương mặt phía sau. Tư thế của cậu học sinh nọ như không hề cảm thấy trọng lượng gì trên vai mình, đôi tay ấy như mọc ra từ phía sau cổ và treo lủng lẳng trước ngực cậu. Một vài học sinh khác nhanh chóng rảo bước ngang qua, không đứa nào trông số chúng cảm thấy khác thường.
Khi Hirose nhìn lại, cậu học sinh nọ đã quay qua một bên. Chỉ mỗi đầu quay về phía đó, cậu ta đang nhìn hai học sinh khác.
Hirose chỉ biết thở dài, lại là mấy trò nghịch ngợm. Chắc nó đã dùng dạo cụ cho cuộc thi hóa trang, phần khi nổi tiếng nhất của lễ hội này, treo trên vai mình để đùa nghịch, rồi mấy đứa khác thấy nên đã nhắc nhở.
Cậu ta nói gì đó và quay lưng về phía cửa sổ. Trong khoảng khắc ấy, khi cậu quay lại, hai cánh tay dường như rụt ra sau và biến mất, tất cả quá trình diễn ra như một con rắn thu mình lại rồi trườn đi. Tất nhiên, đằng sau vẫn không hề có ai và cậu học sinh ấy cũng rời cửa sổ.
oOo
Hirose ngây người một lúc. Anh áp trán vào cánh cửa kính và hình dung lại những việc đã xảy ra.
“Chắc là do khoảng cách.” Hirose tự nói với bản thân mình. “Là do khoảng cách và ánh sáng phản chiếu.”
Giờ đây, giữa không khí tấp nập của việc chuẩn bị cho Đại hội Thể thao, toàn trường đầy mấy thứ thế này, mô hình giấy, quần áo hóa trang và những thứ đội cỗ vũ dùng thoạt nhìn chẳng biết chúng để làm gì.
Có lẽ là những thứ như vậy nên anh mới nhìn nhầm.
Hirose tự nói với mình rồi thở dài. Khí nóng khiến trán anh ướt đẫm mồ hôi, anh buộc mình không được nghĩ về việc ấy nữa và quay đi. Nhưng hình ảnh ấy đã chiếm lấy một góc sâu trong anh.
* * *
Giữa đêm tối, một người đàn ông vội vàng trở về nhà. Gió đêm vỗ nhẹ lên làn da đẫm mồ hôi của ông, khiến chúng càng túa ra thêm.
Ông đã uống một ít và đang đi về dựa theo bản năng của mình, tuy nhiên, bản năng cũng chẳng giúp ông phân biệt được đâu là nhà mình giữa những tòa nhà giống nhau như đúc thế này. Ông đã nhất chuông nhầm vài lần.
Ít ra, ông vẫn còn nhớ được một chút nên lâu lâu lại dừng lại, ngẩn đầu nhìn lên. Những tòa nhà bên ngoài giống hệt nhau xếp thẳng hàng tựa như những bia mộ khổng lồ, ông thỉnh thoảng lại xác nhận lại xem đó có phải là khu nhà của mình không. Số của mỗi tòa nhà 12 tầng này đều có kích thước rất to, sơn màu gạch men và nằm một bên tầng cao nhất, đối diện thang thoát hiểm.
Nhìn đi nhìn lại rồi mà sao vẫn nhầm thế này? Ông thầm nhủ.
Lúc đó, ông chợt nhớ đến con quỷ makuragaeshi.
Ở quê nhà của ông, có một truyền thuyết về makuragaeshi, con quỷ ra ngoài vào ban đêm và di chuyển gối của người ta sang chỗ khác. Mỗi khi ông về nhà bà nội ở quê là quỷ makuragaeshi lại xuất hiện. Buổi sáng thức dậy, ông thường thấy chiếc gối đầu nằm dưới chân mình. Tuy vẫn còn uể oải sau khi mở mắt ra nhưng ông vẫn cảm nhận được vị trí chiếc đệm futon[2] cũng đã thay đổi. Nghĩ lại, ông cho rằng có lẽ tư thế ngủ của mình không tốt nhưng vẫn không thể quên được cái cảm giác bí ẩn hòa cùng khó chịu mỗi khi thức dậy trong căn phòng tatami[3] ở ngôi nhà cũ kỹ chốn quê mùa ấy. Nghĩ kỹ hơn,ông thấy tấm đệm futon cũng không hề bị dịch chuyển trong đêm qua, nhưng những thắc mắc ấy vẫn quẩn quanh trong đầu anh.
Ông cười trừ và đứng lại, nhìn tòa nhà trước mặt và xác nhận lại đây chính là nơi mình cần phải trở về.
Ông tùy tiện gật đầu rồi lại nhìn lên. Trên đường không có ai cũng như khu này cấm xe cộ đi vào. Bước chân ông vang những âm anh thanh loẹt xoẹt giữa con đường vắng, những tòa nhà cao vút cứ như muốn đổ xuống đầu. Ông quay đầu nhìn quanh, cảm thấy hơi choáng váng.
Ông lắc đầu và nhận ra có một ánh sáng trắng trên đỉnh tòa nhà mình đang nhìn lên.
Ánh sáng ấy rất yếu, như một vòng sáng mờ phủ lên mái nhà. Ông chớp mắt vài lần rồi quan sát kỹ hơn và nhận ra có gì đó đang xuất hiện từ giữa vùng sáng ấy.
Quai hàm ông rớt xuống vì ngạc nhiên. Dường như có một con thú bò ra giữa vùng sáng, tuy không rõ nó là con gì nhưng ông biết đó là một con quái vật bốn chân, to lớn hơn chó rất nhiều. Thân thể nó tối đen nên ông không nhìn rõ, nhưng sau lưng nó tỏa sáng mờ ảo.
“Cái quái gì thế?” Ông tự hỏi, nhưng trước khi ông kịp suy nghĩ kỹ hơn thì con quái vật đã phóng vào không khí. Nó chạy băng băng trên nóc nhà, đầu phi về phía trước nhanh như bơi trong nước rồi nhảy qua những tòa nhà cao 12 tầng.
Khi bóng dáng nó biến mất, ông vẫn ngây người đứng đó, nhìn về phía ấy.
Chú thích
↑ Hiện tượng thần ẩn (Kamikakushi, 神隠) là một từ dân gian của Nhật Bản chỉ việc một người tự dưng biến mất giống như bị thần thánh mang đi.
↑ Futon là một loại đệm truyền thống của Nhật dùng để trải xuống sàn ngủ.
↑ Tatami là một loại chiếu cổ truyền Nhật Bản được làm bằng rơm, phần lớn dùng để lát mặt sàn nhà theo kiểu truyền thống.
---------------
3.1
Tuần thực tập đầu tiên sắp kết thúc. Tuy thứ Bảy chỉ học nửa buổi nhưng phần lớn học sinh đều ở lại đến chiều để chuẩn bị cho Đại hội Thể thao. Văn phòng khoa Hóa thì vẫn bị mấy đứa quen mặt cắm dùi.
Không biết Nozue lớp 10 đã nghe tin Hashigami bị thương ở đâu, nhưng cậu ta đang cẩn thận giải thích mọi chuyện.
“Là đinh 5 phân. Trừ phần móng tay, cả cây đinh cắm thẳng vào tay ảnh. Tuy đã đến bệnh viện để lấy ra nhưng chắc cũng không dễ chịu gì cho cam.”
“Ý, ghê quá!” Sugisaki lớp 10 thốt lên.
Máy điều hòa vẫn mở. Thầy Goto đã ra ngoài ăn trưa như thường lệ. Mấy đứa học sinh đã tự mình lấy ly ra nhưng không uống nước trái cây chúng mua vào cũng như cà phê thầy Goto đã chuẩn bị sẵn.
Hôm nay, Tsuiki nghỉ học, Hashigami nghe nói cũng không đến trường.
“Anh Hashigami rất khéo tay, nghề mộc là sở trường của ảnh.”
Lời của Nozue đã làm Hirose chú ý. “Vậy sao?”
Nozue ngoan ngoãn gật đầu. “Thật ra anh Hashigami là một otaku[1].”
Hirose không hiểu cậu ta có ý gì.
“Phòng ảnh tuyệt lắm. Có đến tận năm đầu thu để ghi lại anime. Ảnh còn có một hệ thống ăng-ten xịn để bắt sóng mấy đài ở xa.”
“Ồ?”
“Vâng, băng hình và cát-xét chất đầy kệ. Ảnh tự mình đóng chúng đấy.”
Iwaki mỉm cười. “Đến khỉ đôi khi còn ngã từ trên cây xuống mà.”
Sugisaki cười to. “Và ngay cả Hashigami cũng có lúc tự đóng đinh vào tay mình.”
Hirose gượng cười nhưng anh vẫn không hài lòng về cách giải thích ấy, vẫn còn điều gì đó khó hiểu.
“À, đúng rồi, em nghe nói hôm trước Tsuiki cư xử kỳ lạ lắm, phải không?” Iwaki hỏi.
Hirose bối rối gật đầu. “Em cũng biết chuyện ấy à?”
“Một đứa lớp em đã ở đó. Nghe nói cậu ta vội chạy ra, hình như có xích mích gì với Takasato.”
“Ừ… Là do Hashigami khơi mào, rồi thành ra vậy.”
“Khơi mào? Anh Hashigami cũng ở đó sao?”
“Ừ.”
“Chuyện đó phải không? Thần ẩn gì đó?” Nozue bị kích thích.
Hirose lơ đễnh gật đầu.
“Thần ẩn là sao?” Sugisaki tò mò hỏi.
Nozue kể lại toàn bộ câu chuyện, một nửa là sự thật, nửa còn lại do cậu ta dựng lên.
“Thật ư?”
“Đừng tin. Nozue đã chế hết một nửa đấy.” Hirose trả lời với một nụ cười bỡn cợt.
Mặt Nozue xụi xuống khi nghe thấy những lời này. “Phiền phức thật. Mọi người bàn tán, tivi chiếu suốt cả ngày… Nhưng hiện tượng thần ẩn có thật đấy.”
“Chà…”
Vừa lúc đó.
“Anh nghĩ tốt hơn cậu không nên nói về chuyện đó nếu chỉ đơn giản thấy nó hay ho.” Sakata lớp 11 lên tiếng.
“Tại sao?” Iwaki quay lại hỏi.
“Một đứa lớp tớ từng nói sẽ có chuyện không hay xảy ra cho cậu nếu đem chuyện ấy ra làm đề tài tán gẫu.”
“Không hay là sao?” Lần này người hỏi là Hirose.
Sakata nhún vai. “Em cũng không rõ. Cái cậu bạn cùng lớp của em xem ra cũng không thích nhắc đến chuyện này. Cậu ta học chung lớp 10 với Takasato và bảo rằng nói đến chuyện như vậy là không tốt. Em nghe nói mấy thằng ăn hiếp Takasato đều có kết quả không hay ho gì cho lắm…”
Mọi người đều cảm thấy e dè, nhưng Hirose không thể không nhìn mọi việc một cách nghiêm túc hơn.
“Không tốt? Ý em là tai nạn hay gì đó tương tự?”
“Vâng. Nghe nói mấy đứa ức hiếp Takasato đều gặp chuyện, mấy đứa trêu chọc cậu ta cũng vậy.”
“Không thể nào!” Iwaki lên tiếng.
Sakata ngần ngại nghiêng đầu. “Chỉ là nghe nói thôi. Nhưng gần đây chẳng phải có rất nhiều người bị thương sao, thậm chí còn có đứa chết trong chuyến dã ngoại hồi mùa xuân. Dĩ nhiên, tất cả chỉ là tin đồn.”
“Có cả người chết?” Đó là lần đầu tiên Hirose nghe thấy việc như thế này, anh tò mò nhìn Sakata.
“Vâng, khi đang đi thuyền thì thằng đó tự dưng ngã xuống biển và chết đuối, hình như là lớp 3. Chuyện xảy trên đường về, nhà trường đã dừng chuyến dã ngoại lại ngay. Lên cả báo ấy, thầy đọc chưa?”
“À, thầy nhớ rồi…”
“Nghe nói hôm trước, vì không thích cái mặt của Takasato nên nó đã rủ hai thằng bạn đi đánh Takasato. Thằng đó thì chết, mà hai thằng còn lại cũng không khá hơn.”
Iwaki tỏ vẻ không hài lòng và lên tiếng. “Có thật không đó?”
“Tớ nói thật. Dựng chuyện lên làm gì? Hai thằng kia, một đứa thì bị xe tải tông gãy chân, đứa còn lại gặp tai nạn khi chạy xe máy mà chưa có bằng lái và bị thương nặng. Nó bị đình chỉ học, sau đó thì bỏ học luôn. Chắc chắn là cả ba thằng không còn trong trường.” Rồi Sakata chặc lưỡi. “Hồi tớ học lớp 10 cũng có người chết.”
Không ai nói gì nữa. Hirose biết mọi người đều bị sốc, anh cũng không nói nên lời, một nỗi sợ bỗng trỗi dậy trong anh. Anh đã hiểu vì sao Tsuiki kinh hãi đến thế, còn những đứa khác đều lo lắng, tất cả là vì những tin đồn này.
3.2
Hôm sau là Chủ Nhật, để giúp học sinh chuẩn bị tốt hơn, văn phòng đã mở cửa trường. Có vẻ như thầy Goto định dành cả ngày ở trong văn phòng khoa. Hirose nghe nói những thực tập sinh còn lại đã đến trường và nhân dịp này mà trau dồi khả năng chủ nhiệm của mình. Sau khi suy nghĩ một lúc, anh gọi cho thầy Goto và nói rằng buổi chiều sẽ đến, sau đó rời căn hộ của mình lúc sáng sớm.
Cái cảm giác bất an cứ quay mãi trong đầu, khiến anh muốn tìm ra sự thật. Theo mẫu giấy Nozue ghi lại, anh đến thăm nhà Hashigami. Chỉ khi xác nhận lại mọi chuyện với chính người trong cuộc thì anh mới thấy thoải mái hơn. Tuy nhiên, dù biết tất cả đơn thuần chỉ là một tai nạn thì anh vẫn có chút ngần ngại.
Nhà Hashigami nằm ở trung tâm thị trấn mới, trường học cũng tọa lạc tại khu này, giữa những khu nhà là công viên. Thị trấn mới vô cùng dễ chịu, rất phù hợp với hình tượng một vùng ngoại ô yên bình. Nhà Hashigami nằm ở một góc, chỉ nhìn qua là thấy ngay tòa nhà này chỉ dành cho người có tiền.
Hirose bấm chuông, nói tên và mình tìm Hashigami. Chỉ một lúc sau, cậu đã từ cầu thanh xoắn xuống đại sảnh.
“Ra là anh Hirose à?”
“Trông em không tệ lắm.” Hirose nói.
Hashigami cố nặn ra một nụ cười. “Thật ra là em trốn học đấy. Thứ Bảy chỉ học nửa buổi thôi, phải không?” Cậu vừa đùa vừa chỉ về phía lầu hai. “Thôi, lên lầu nào.”
oOo
Phòng của Hashimi y như những gì Nozue đã miêu tả. Bên trong toàn là băng hình hay mấy thứ tương tự. Kê sát tường là một chiếc kệ cao đến trần nhà, dưới sàn trải tám tấm chiếu tatami. Tất cả kệ tủ đều được đóng và đánh bóng cẩn thận. Nếu không phải Nozue nói thì Hirose đã cho rằng mấy cái kệ này đều được mua ở ngoài.
“Tất cả kệ đều do em tự làm à?”
Hashigami vừa đem vào một chiếc ấm điện vừa cười, tỏ vẻ hơi xấu hổ. “Vâng ạ, mà hơi kỳ một chút khi dùng nguyên liệu và làm theo kỹ thuật bình thường.”
“Đẹp lắm.”
“Ha ha.” Hashigami cười, có chút thẹn thùng.
“Khéo tay thế này mà sao lại tự làm mình bị thương?”
Hirose vừa dứt lời, Hashigami liền đưa bàn tay đang băng bó lên. “Cái này à?”
“Nghe nói em đóng đinh vào tay mình?” Hirose hỏi.
Mặt Hashigami hơi nhăn lại. Cậu suy nghĩ một chút, tay kéo kéo phần cuối miếng băng. “Cây đinh ấy tự cắm vào tay em…”
Hirose không biết phải trả lời thế nào nên cứ nhìn Hashigami như thế.
Mặt Hashigami hơi đanh lại như một đứa trẻ. “Anh Hirose có tin có ma không?”
Câu hỏi ấy khiến Hirose nhất thời không biết phải trả lời ra sao.
“Trước đây em cũng không tin.” Hashigami nói với một gương mặt cương quyết.
“Anh cũng vậy… Không tin lắm mấy việc như thế.”
Đâu đó trong lòng mình, Hirose cũng hơi cảnh giác bởi vì sự kiện ngày hôm ấy vẫn còn quẩn quanh trong tâm trí anh.
“Nhưng em nghĩ là ma làm đấy.” Hashigami nhỏ giọng.
“Sao em lại nghĩ vậy?”
“Bởi vì em không nhìn thấy người đóng cây đinh ấy vào tay mình.” Hashigami thả túi trà vô tách, đổ nước nóng từ cái ấm điện vào rồi đậy lại. “Khi đang đóng đinh, à, làm cho xong cái cổng vòm, em cầm cây đinh bằng tay trái và búa bằng tay phải, nhưng cây đinh lại cắm vào tay em không cầm đinh.”
Vừa nói Hashigami vừa cầm cây đinh trên bàn lên, đó là một cây đinh dài khoảng 5 phân, ở giữa hơi cong lại, đã cũ và rỉ sét.
“Là cây đinh đó à?”
“Vâng. Em đã mang nó về từ bệnh viện để làm kỷ niệm.”
Quả là một kỷ niệm đáng nhớ. Hirose thầm nghĩ, nhưng anh không nói ra.
“Em mang theo búa và đinh từ nhà lên, ý em là, đồ riêng của mình, nhưng cây đinh đó không phải của em.”
“Tại sao?” Hirose thắc mắc.
Hashigami nhún vai. “Em không dùng đinh rỉ. Chẳng phải người ta hay nói nếu bị đinh rỉ đâm phải thì sẽ bị uốn ván sao? Nghe cũng kinh kinh nên em đã vứt sạch mấy cái bị rỉ sét, chưa kể nó đã cong thế này. Chắc là cây đinh này đã được dùng qua, em nghĩ có đóng nó thế nào thì cũng không thẳng lại được.”
Nói xong, Hashigami thả cây đinh xuống bàn lại.
“Khi đang làm việc ở một góc, em cảm thấy có gì đó đâm vào bàn tay trái. Khi đưa tay lên nhìn thì đã thấy cây đinh dính vào tay mình.”
“Đâm cả cây vào luôn à?”
“Không.” Hashigami cười. “Khỉ phần đuôi thôi. Nói nó treo lủng lẳng thì chính xác hơn là dính vào. Không có ai giữ nó cả, cây đinh tự động dựng lên rồi xuyên thẳng vào tay em.”
Giọng Hashigami cứ đều đều, khiến Hirose cảm thấy đáng tin.
“Em ngạc nhiên, không biết chuyện gì đang xảy ra nên để cây đinh đang cầm qua một bên rồi đưa tay đến gần để nhìn rõ hơn. Rồi cách một cái, ai đó bất chợt đóng nó vào.”
“Ai đó?”
“Vâng. Tuy chẳng thấy ai nhưng em có cảm giác như có ai đóng đã dùng búa đóng cây đinh đó vào tay em hay tương tự thế. Cú đập ấy khiến tay em văng ra, khi định chống tay xuống đất thì em lại nghe một tiếng cách nữa và cây đinh đã cắm thẳng vào tay em.”
Nhiệt độ trong phòng như từ từ hạ thấp xuống. Hirose vô thức nhìn chiếc máy lạnh treo gần cửa sổ.
“Em sợ quá, nhưng lại không nói nổi tiếng nào, cứ như dòng suy nghĩ bị chặn lại vậy. Rồi một cú nữa, tuy không đau lắm, nhưng em mất hết cảm giác. Em cố đưa tay lên nhưng lại không thể, khi nghĩ đến đó thì cây đinh lại đóng vào một lần nữa. Kết quả là cả cây cắm thẳng vào tay, chừa lại phần đầu một chút. Em đã hét lên chuyện quái gì đang xảy ra thế này, nghe buồn cười không?”
Hashigami cười cay đắng. “Thằng đằng sau hỏi em bị gì, em nói với nó là bị đinh cắm vào tay. Cả bàn tay em dính chặt vào đất, em đành dùng tay còn lại nhẹ nhàng gỡ tay mình ra, trên mặt đất vẫn còn một lỗ, không hề có máu. Em không chờ đến khi bị đau và chạy ngay đến Phòng Y tế.”
Hashigami đổ hồng trà vào trong tách. “Có lẽ hơi đắng.” Cậu thì thầm.
Tách trà bị bỏ quên đã chuyển sang màu nâu đậm, chắc là sẽ đắng lắm.
“Em nghĩ giá trị của mình sẽ bị thay đổi sau việc này nên giữ cây đinh ấy làm kỷ niệm.”
“Vậy đã thay đổi chưa?” Hirose trầm tĩnh hỏi, giọng anh như khan lại.
“Không hẳn. Em thấy cũng không liên quan lắm, nhưng ngày hôm qua quả là đáng sợ. Mỗi khi cố ngủ, em lại sợ sẽ có một cây đinh khác sẽ cắm vào người mình. Em sợ phải nhắm mắt, cứ nghĩ ngu ngốc là khi nhắm lại rồi, sẽ có một cây đinh đóng thẳng vào mắt mình. Nhưng dù gì thì rốt cuộc cũng ngủ được.”
Hirose chỉ đơn giản gật đầu, anh không biết trả lời thế nào. Những gì Hashigami nói thuyết phục một cách kỳ lạ, nhưng có gì đó trong lòng anh ngần ngại tin vào những điều ấy, vì thế nên anh không cho phép mình bình luận về việc này.
“Em đã từng không tin vào mấy chuyện ma cỏ, giờ cũng vậy, nhưng em vẫn nghi ngờ. Đó là gì? Có lẽ gọi là bối rối nhỉ?”
Hirose cũng chỉ biết gật đầu.
3.3
Không nói được cũng như nghĩ được gì hơn, Hirose rời nhà Hashigami và đến nhà Tsuiki. Không học sinh nào biết nhà Tsuiki nên Hirose tra cứu hồ sơ trường rồi đến đồn cảnh sát hỏi đường.
Nhà Tsuiki nằm phía rìa khu đô thị mới. Khu vực này được pha trộn bởi những căn nhà mới được xây cất gần đây với những căn nhà cũ đã có từ trước. Thật ra, mấy ngôi nhà này cũng không cũ lắm, nhưng chúng mang phong vị khác hẳn những căn nhà mới được xây xung quanh.
Hirose bấm chuông. Mẹ Tsuiki ra mở cửa, Hirose nói tên mình và bà lên lầu gọi con trai. Một lúc sau, anh nghe thấy tiếng trò chuyện vọng xuống và mẹ Tsuiki trở lại.
“Xin lỗi, nhưng nó nói mình không khỏe lắm.” Giọng bà không hề có chút e ngại.
“Em ấy có sao không ạ?” Hirose hỏi.
Mẹ Tsuiki nhíu mày. “Xin lỗi, nhưng cậu có phải bạn nó không?” Bà như có ý nói rằng: “Tôi không nhớ tên và mặt cậu.”
“Không. Cháu là giáo viên thực tập. Thầy Goto bảo cháu đến xem em ấy sao rồi.” Hirose thầm xin lỗi thầy Goto.
Mẹ Tsuiki che miệng lại. “Ồ, vậy ư? Mời vào.”
Hirose đành cười trừ khi bà nói: “Tại trông thầy trẻ quá.” Rồi bà dẫn anh lên lầu hai. “Mời thầy lên lầu. Tôi cũng không biết thằng bé ấy nghĩ gì, nó cứ nói mình không khỏe mãi. Bác sĩ bảo chỉ cần dùng nạn là đi học được bình thường nhưng nó kiên quyết nghỉ học. Thằng bé vốn là đứa siêng năng nên tôi cứ nghĩ mãi không biết chuyện gì đã xảy ra ở trường.”
Hirose vô thức gật đầu rồi lên lầu. Căn phòng ở trên tầng cao nhất có vẻ là phòng của Tsuiki.
“Là thầy thì cứ nói mình là thầy đi, không thì làm sao tôi biết được?” Bà vừa nói vừa tự nhiên mở cửa mà không gõ trước, rồi quay lại nhìn Hirose. “Để tôi đi pha ít trà.”
“Xin đừng khách khí.”
Tsuiki đang co ro nằm trùm mền trên giường.
“Em thấy thế nào?” Hirose hỏi.
Tsuiki thò đầu ra. “Tên thầy là Hirose à?” Tsuiki hỏi y như Hashigami.
“Chân em sao rồi?” Hirose mỉm cười.
Tsuiki ngồi dậy và mặc áo khoác vào. Cậu cử động chân một cách khó nhọc, Hirose thấy chân Tsuiki đã được băng từ đùi đến gót.
“À, cũng không tệ đến thế.”
“Thật không? Hôm trước, khi thầy đến Phòng Y tế thì em đã về nhà.”
“Vâng…”
“Sao lại tự cắt vào chân?”
Tsuiki không trả lời.
Vừa lúc đó, mẹ cậu mang trà vào, thấy gương mặt cậu, bà cười lo lắng. “Nó cứ nói là tai nạn, không có gì hơn. Từ khi vào cấp Ba, thằng bé càng lúc càng ít nói. Em trai tôi trước đây cũng vậy.”
Khi mẹ cậu định ngồi xuống kế Hirose, Tsuiki nói cộc lốc: “Sao mẹ không xuống nhà?”
“Nhưng…”
“Tụi con chẳng nói chuyện gì quan trọng đâu. Mẹ xuống nhà đi.”
“Được rồi.” Bà hết nhìn Hirose đến nhìn Tsuiki rồi rời phòng.
Hirose im lặng một lúc, lắng nghe tiếng chân của bà đi xuống. Tsuiki cũng duy trì cái tư thế ấy và nghe theo tiếng bước chân của mẹ mình.
“Tsuiki.” Hirose nói. Tsuiki nhìn lại anh với gương mặt vô cùng lo lắng. “Vết thương của em có liên quan gì đến Takasato không?”
Nghe thấy thế, Tsuiki mở miệng.
“Em có nói dính đến Takasato là không tốt. Thầy đã nghe những việc đáng tiếc ấy. Em cũng bị thương như thế à?”
Lúc đó, Tsuiki định nói gì đó nhưng rồi lại thôi.
“Thầy vừa đến nhà Hashigami.”
“Anh Hashigami có sao không?” Tsuiki bất chợt chồm đến.
Hirose gật đầu. “Không nặng lắm.”
Tsuiki nhăn mặt hỏi: “Có chuyện xảy ra với anh ấy à?”
Hirose nhận ra rằng đó không chỉ là cuộc nói chuyện riêng về hai người. “Em lo lắng cho Hashigami ư? Lo sẽ có việc gì xảy đến với cậu ấy à?”
“Anh ấy bị gì vậy?”
“Một cây đinh.” Hirose đưa tay trái mình ra. “Chọc thẳng vào tay. Hashigami bảo nó tự đóng vào tay cậu ấy.”
Tsuiki cúi đầu.
“Hashigami nói có thứ gì đó vô hình đã làm chuyện ấy.”
“Thầy tin ảnh không?” Tsuiki hỏi thẳng.
Hirose gật đầu và trả lời thẳng thắn. “Trông cậu ta không nói dối. Lúc đầu, thầy cũng nửa tin nửa ngờ, nhưng khi nhìn thấy em thì thầy đã hoàn toàn tin chuyện ấy.”
Tsuiki cúi đầu sâu hơn. Hirose có thể thấy bàn tay đặt trên đầu gối cậu đang run lên, anh biết Tsuiki đang sợ hãi.
“Nếu làm Takasato giận, xem như cầm chắc cái chết.” Sau khi kiên nhẫn chờ đợi một lúc, Tsuiki cuối cùng cũng lên tiếng, những điều cậu nói rất đáng ngạc nhiên. “Khi còn học cấp Hai, em có luyện thi chung với một bạn học cùng trường với Takasato, nó thường nói về Takasato. Đại loại như trường nó có một thằng lạ lắm, trước đây đã từng biến mất. Rồi nó nói nếu chọc giận Takasato thì chết, còn làm Takasato bực mình thì bị thương nặng. Lúc đó, em thấy chuyện ấy cũng buồn cười…”
“Có phải chuyện xảy ra trong chuyến dã ngoại không?”
Tsuiki lắc đầu. “Thằng đó chỉ nói chơi thôi nên em cũng không tin. Rồi nó kể cho em nghe một việc xảy ra vào mùa hè năm lớp 9. Nó nói nó rất sợ học bơi, có gì đó đã kéo chân nó, khiến nó sợ lắm. Lúc đó, nó đã khóc ngay giữa lớp học thêm.”
Hirose chỉ im lặng lắng nghe.
“Nó nói nó đã làm Takasato bị thương, hình như là gây gổ ở tiết Thể dục hay Khoa học Tự nhiên gì đó. Nó chắc chắn lý do là thế.”
“Em nói gì vậy…?”
Tsuiki lắc đầu. “Em nghĩ chính nó cũng không rõ. Nó nói có gì đó kéo chân nó. Rồi sau đó, nó bảo mình không khỏe và không bơi được, nhưng thầy giáo không tin. Nó nói mình sẽ sớm bị kéo chân đến chết đuối, và việc ấy quả thật đã xảy ra, nó chết đuối ở hồ bơi.”
Hirose lại không biết nói gì.
“Khi vô năm 11, em được xếp vào cùng lớp với Takasato. Đầu tiên, em cũng không biết Takasato là ai. Về sau, mấy đứa khác nói nếu dính đến Takasato thì sẽ bị nguyền rủa. Em nghe nói năm lớp 10, đã có người chết và bị thương. Em cũng không cố ý tìm hiểu về mấy tin đồn ấy, chỉ là cảm thấy khó chịu. Kết quả là, trong chuyến dã ngoại…”
“Ừ, thầy cũng có nghe chuyện này.”
Tsuiki gật đầu. “Nhìn gương mặt khó chịu của Takasato hôm đó, em biết có chuyện sẽ xảy ra…”
Hirose phá vỡ sự im lặng để Tsuiki kể tiếp. “Và rồi?”
“Và rồi, khi đang làm việc, có một bàn tay kỳ lạ đã nắm lấy chân em.”
“Bàn tay kỳ lạ?”
“Xanh xao, trông như tay một phụ nữ. Em đang dùng đầu gối đỡ tấm bảng gỗ thì có ai đó níu lấy chân em, như cố ôm chúng thật chặt. Em ráng đẩy nó ra nhưng không thể cử động. Em nghĩ bạn cầm cưa không để ý nên cứ cưa tiếp. Cái cưa cứ đến gần, em biết cứ thế này thì chân em sẽ bị cắt mất, nhưng em không thể cử động. Em cúi đầu nhìn về phía dưới tấm bảng và thấy một cánh tay phụ nữ xanh xao đang nắm lấy chân mình, nhưng ở đó chẳng có ai cả.”
“Em có la lên không?”
“Làm sao mà la nổi chứ. Tất cả những gì em nghĩ được lúc đó là chân mình sẽ bị cưa đứt mất. Trong đầu chỉ toàn hình ảnh chân mình bị đứt lìa, em không biết phải làm thế nào. May mà cuối cùng chỉ bị thương nhẹ. Thế là may mắn lắm rồi, em đã không làm Takasato giận lắm.”
Từ một khía cạnh nào đó, Hirose cảm thấy việc ấy thật đáng sợ.
“Nhưng rồi, trên đường đến Phòng Y tế, em cứ cảm thấy khó chịu. Em sợ mọi việc không chỉ dừng lại ở đó nên vội chạy về nhà. Nhưng cũng không có chuyện gì xảy ra…” Tsuiki đành nhìn Hirose. “Có phải thế không thầy ơi? Takasato có giận lắm không khi em chạy khỏi lớp?”
Tsuiki rất hoảng hốt. Hirose chỉ đơn giản gật đầu. “Không, có vẻ Takasato cũng không quan tâm lắm.”
“Sao thầy nghĩ thế? Thầy nghĩ Takasato có giận không?”
Hirose thở dài. “Cũng không có gì xảy ra với Hashigami sau đó. Chắc là ổn rồi.”
Tuy lời của Hirose không có căn cứ gì nhưng Tsuiki trông có vẻ phấn chấn hơn. Cậu thở phào nhẹ nhõm và mỉm cười, nhưng rồi lại đột nhiên cau mày lại.
“Thầy…”
Hirose hiểu ý Tsuiki và gật đầu. “Thầy sẽ không kể cho ai hết. Yên tâm đi!”
Nghe thấy thế, Tsuiki như gõ bỏ đi được một nỗi lo lắng và thở dài thật sâu.
3.4
Hirose không tin vào ‘lời nguyền Takasato’ nhưng anh thấy rất nhiều học sinh tin chuyện này.
Mọi người đều cho rằng Takasato đem đến bất hạnh, vì thế nên mỗi khi có chuyện xảy ra, họ lại đổ cho Takasato. Hirose biết mọi việc diễn ra như thế, nhưng anh lại không hiểu đó chỉ là tin đồn vớ vẩn hay sự thật.
Khi anh mở cửa văn phòng khoa Hóa, thầy Goto chào anh như thường lệ, ông đang đứng trước chiếc giá vẽ.
“Tsuiki và Hashigami sao rồi?”
Nghe câu hỏi của thầy Goto, Hirose điếng người, rồi anh cười khan. “Thầy phát hiện ra rồi hả?”
“Ít nhất thầy biết em nghĩ gì. Mà nếu em không đi thì thầy cũng đi, hai đứa nó sao rồi?”
Hirose đưa cho thầy Goto nước quả anh đã mua ở một máy bán hàng tự động gần đó.
“Hashigami trông khá phấn chấn. Còn Tsuiki, em nghĩ cũng không tệ.”
“Vậy là vì Takasato?”
Như gióng lên một hồi chuông, Hirose nhìn thầy Goto. “Ý thầy là…?”
“Chẳng phải Takasato đã cãi vả với hai đứa nó ngày hôm trước sao? Thầy có nghe Iwaki nói.”
Hirose quan sát thái độ của thầy Goto. Vì thường có học sinh ra vào văn phòng khoa này nên thầy biết hết chuyện của chúng, tất nhiên, ‘lời nguyền Takasato’ cũng không ngoại lệ. Nhưng Hirose thấy trông thầy có vẻ khá tin vào việc này, cái giọng điệu của ông khiến anh không ngờ đến.
“Là do Takasato?”
Hirose nhớ lại lời hứa với Tsuiki nên hơi hoang mang.
“Đừng lo, thầy sẽ không kể cho ai cả.”
“Ít nhất thì… Tsuiki tin là thế. Nó nói đó là lời nguyền Takasato. Còn Hashigami thì có vẻ không biết gì.”
Sau khi Goto lau tay xong, ông ngồi xuống và mở lon nước quả ra. “Takasato là một đứa trẻ có vấn đề. Theo một khía cạnh nào đó, nó có rất nhiều vấn đề. Tựa như mắt bão vậy, bản thân nó vốn không chấp mấy chuyện nhỏ nhặt, nhưng tất cả những gì xung quanh nó đều loạn cả lên.”
“Nói mấy chuyện này với giáo viên thực tập có ổn không ạ…?”
Goto chỉ cười cay đắng và nhìn về phía lon nước quả.
Hirose hiểu nên anh liền hỏi: “Vào ngày đầu tiên, thầy có nhắc qua một chuyện, có phải chuyện này không?”
Goto gật đầu. “Ừ.”
“Em nghe nói Takasato nguyền rủa người khác, trong chuyến dã ngoại lần trước, đã có học sinh phải mất mạng… Thật không?”
Goto nhíu mày. “Đúng là có đứa chết trong chuyến đi chơi ấy. Cảnh sát cho rằng đó là tai nạn, thằng nhóc ngốc nghếch ấy đã uống bia phía sau thuyền. Phần lớn học sinh trường này đều rất biết cách cư xử, nhưng thi thoảng cũng có mấy đứa hành động linh tinh. Thằng bé đó vốn không bao giờ tuân theo nội quy, Đội Sao đỏ cũng liệt nó vào đối tượng cần chú ý. Nó và một vài đứa khác đã uống bia đến say khướt. Chúng bảo muốn hóng ít gió, rồi chạy lên mạn thuyền. Kết quả là nó rơi xuống biển. Tất cả mọi người ở đó đều nhìn thấy, chắc chắn là một tai nạn.”
Nói xong, Goto nghiêng đầu và uống một ngụm nước quả. “Tuy hơi miễn cưỡng, nhưng thầy nghĩ có gì đó đằng sau tai nạn ấy.”
Hirose gật đầu và hỏi: “Thầy Goto cảm thấy thế nào về Takasato?”
Nghe câu hỏi ấy, Goto nhìn thẳng về phía Hirose, sau đó, lại nhìn xuống tay mình và hỏi: “Xem ra em rất quan tâm đến Takasato?”
“Vâng.”
“Tại sao?”
“Em không biết.” Hirose trả lời thật lòng.
Hirose cảm thấy Takasato không như những học sinh khác. Tuy nhiên, nếu chỉ vì việc ấy thì anh đã không quan tâm đến cậu ta đến thế. Hirose chưa từng giỏi nhận ra mấy việc này, lý do khiến anh cứ phải suy nghĩ là vì bức tranh ấy, bức tranh không thể diễn tả bằng lời mà Takasato đã vẽ, lời đồn về việc ‘bị thần ẩn’ và gương mặt của Takasato khi cậu cố gắng nhớ lại mọi chuyện.
Thầy Goto cười và nhìn về phía cửa sổ. “Thầy cũng đã từng rất quan tâm đến Takasato. Thầy đã tra cứu tất cả mọi tư liệu có được về nó, chỉ đơn thuần là vì tò mò.” Ông cười xấu hổ. “Có rất nhiều người chết và bị thương quanh Takasato, việc này đúng là có thật. Ví dụ như, năm thằng bé học lớp 9, đã có đến bốn người chết.”
“Bốn người… Nhiều vậy sao?”
“Khoảng đó. Ba đứa chết vì tai nạn, một đứa vì bệnh. Tất cả nguyên nhân đều rất rõ ràng, không có gì đáng ngờ. Mà này, Hirose, chẳng phải hồi em học cấp Ba cũng có người chết sao?”
Khi thầy Goto bất chợt hỏi câu này, Hirose vội lục lại trí nhớ của mình. “Hai người, một bị tai nạn, người còn lại là giáo viên chết vì bệnh. Em cũng không rõ lắm.”
Goto gật đầu. “Trường hợp của Takasato cũng thế. Một đứa học cùng khối với Takasato, mấy đứa còn lại đều không biết nó. Nhưng khi nhắc đến việc này, tất cả đều đổ hết cho lời nguyền Takasato. Đó có thể chỉ là trùng hợp thôi, làm sao chúng ta biết được.”
“Thầy nói cũng có lý.”
“Chuyện hồi chuyến dã ngoại cũng thế. Một đứa chết, hai đứa bị thương nặng, đều do tai nạn, dù em nhìn thế nào thì tất cả cũng chỉ đơn thuần là tai nạn. Một tháng sau, nếu có chuyện gì xảy ra cho người thứ ba thì có liên quan đến Takasato không…? Thầy cũng không biết.”
Hirose gật đầu đồng ý.
“Nhưng mọi người đều sợ Takasato. Con người rất nhạy cảm và vội vàng đưa ra quyết định, nhưng mặt khác, Takasato cũng không bị ức hiếp vì người ta tin rằng nó sẽ nguyền rủa họ.”
Hirose gật đầu, anh ngần ngại hỏi: “Em có nghe vài tin đồn kỳ lạ về Takasato…”
Thầy Goto cũng gật đầu và nói thẳng: “Là thần ẩn phải không?”
“Có thật không?”
“Có lẽ. Ít nhất là nó đã phải học lại một năm. Chuyện xảy ra khi thằng bé học lớp 4.”
“Nhưng biến mất…”
“Nghe nói nó biến mất giữa vườn nhà.”
Nói xong, Goto ném cái lon rỗng vào thùng rác rồi đưa cho Hirose cái ly không đang nằm một bên. Hirose im lặng nhận lấy và theo thói quen mà rót cà phê vào.
“Thầy nghe nói chuyện xảy ra ở sân nhà Takasato vào tháng Hai năm thằng bé học lớp 4. Lúc ấy, nó đang ở sân nhà. Nhà nó cũng cũ rồi, cái loại nhà có nhà kho trong sân. Nhà nó cũng có nhà kho, Takasato đã ở gần đó.”
Goto cho một thìa đường và một thìa kem lớn vào tách cà phê Hirose đưa rồi khuấy đều.
“Toàn bộ sân vườn được bao phủ bởi tường đất và nhà cửa, nếu không vào nhà thì không thể ra ngoài được. Mà để vào nhà thì phải đi qua hành lang phòng khách, cả mẹ và bà nó khi ấy đều ở đó cả buổi. Cánh cửa kéo của hành lang để mở và họ đã thấy hết tất cả. Nghe nói họ chỉ lơi mắt đi một giây thì Takasato đã biến mất.”
“…”
“Cả hai đều xác nhận là Takasato không hề đi ngang qua. Tường cao đến mái nhà, trong sân cũng không có gì để kê vào mà trèo lên, một bên là căn nhà kho rất ít khi mở cửa, một bên là bức tường phòng tắm chỉ với một cửa sổ để chiếu sáng, có lắp lưới để che bớt tầm mắt, sàn nhà không đủ cao để một người có thể bò xuống. Nói cách khác, Takasato buộc phải đi qua phòng khách để rời sân nhà.”
Thầy Goto ném chiếc muỗng vào chậu rửa chén, nó kêu keng một tiếng. “Takasato đã biến mất như thế. Mọi người đều cho rằng đó là hiện tượng thần ẩn.”
“Nhưng…”
Trước khi Hirose kịp nói tiếp, thầy Goto đã đưa tay lên ngăn lại. “Tất nhiên cảnh sát bảo là bị bắt cóc. Có ai đã trèo tường vào và đem Takasato đi. Có lẽ do cách giải thích ấy là hợp lý nhất, cũng có thể từ đầu họ đã cho rằng như thế, nhưng sau đó, họ lại thấy tội Takasato. Tuy nhiên, có chỗ sơ hở trong cách giải thích này.”
“Sơ hở?”
Goto nhướng mày. “Bên kia bức tường là sân nhà hàng xóm.”
Nếu thế, kẻ bắt cóc phải đột nhập vào nhà hàng xóm để leo tường vào nhà Takasato.
Goto tiếp lời. “Dù thế nào đi chăng nữa, Takasato đã ở đâu đó một năm, chính xác hơn là một năm hai tháng. Khi trở về, nó không có bất cứ ký ức nào về một năm qua. Chuyện gì xảy trong khoảng thời gian ấy? Không ai biết cả.”
“Cảnh sát có điều tra sâu hơn không?”
“Thầy nghĩ là có, nhưng không phát hiện được gì. Ngoài việc ai làm, ngay cả chuyện Takasato đã từng ở đâu và trở về ra sao cũng không ai rõ.”
“Làm sao nó trở về?” Hirose tò mò.
Goto gật đầu. “Takasato trở về một năm hai tháng sau đó, nghe nói là vào tang lễ bà nội mình. Nó đột ngột xuất hiện trước nơi diễn ra buổi lễ, không ai thấy nó đi về.” Goto thở dài. “Những người đến viếng đã phát hiện ra Takasato. Khi họ thấy một đứa trẻ trần truồng bước vào, tất cả đều nhận ra đó là thằng bé đã biến mất một năm trước, mọi người càng hoảng hốt hơn. Nhà Takasato nằm ở khu phố cũ, để về nhà, nó phải đi qua thị trấn. Hôm ấy có tang lễ nên có rất nhiều người ra vào, nhưng không một ai thấy nó ngang qua cả.”
“Thật kỳ lạ…”
“Có rất nhiều người trò chuyện ở nông trại hai bên đường, họ đều quả quyết là không nhìn thấy xe cộ cũng như có ai đó đáng ngờ đi qua, nhưng họ cũng không xác nhận được việc có thấy Takasato hay không. Cũng như khi nó biến mất, Takasato đột nhiên xuất hiện trở lại.”
“Vậy đó gọi là hiện tượng thần ẩn?”
“Ừ. Khi trở về, Takasato không những đã cao lên mà còn tăng cân. Sức khỏe của nó rất tốt… Có lẽ người duy nhất biết chuyện gì đã xảy ra chỉ mỗi mình Takasato.”
Takasato quả nhiên kỳ lạ. Hirose thầm nghĩ.
Chỉ với những việc ấy thôi thì bản thân sự tồn tại của Takasato đã là kỳ lạ rồi. Theo như cách nói của Tsuiki, chuyện Takasato biến mất rất nổi tiếng. Tất nhiên là mấy chuyện như vậy sẽ nổi tiếng. Những người xung quanh đã phản ứng ra sao khi Takasato trở về? Chẳng có ai chào đón cậu, phải không? Hàng xóm chắc chắn đã đem cậu ra làm đề tài bàn tán, bạn cùng lớp thì phân biệt đối xử. Tất cả những chuyện ấy đều rất dễ đoán.
Với Takasato, đó cũng không phải chuyện đáng tự hào gì. Vài học sinh đã nhìn Takasato bằng một con mắt thiếu thiện cảm, rõ ràng quá khứ ấy đã ảnh hưởng đến cậu. Takasato chắc chắn cũng biết chuyện ấy. Nếu thế, theo lẽ thường tình, chẳng phải cậu ta sẽ muốn để tất cả lại phía sau sao?
“Hình như Takasato rất muốn nhớ lại.” Hirose nói.
Goto gật đầu. “Không hơn không kém. Xem ra Takasato cũng quan tâm đến việc mình bị cô lập, nếu không, nó đã không muốn nhớ lại.”
Với Takasato, việc cậu đã từng biến mất không phải là điều cấm kỵ. Hirose rất ngạc nhiên về chuyện ấy.
“Cho dù là lời nguyền hay tin đồn thì những chuyện đã xảy ra đều có liên quan đến sự kiện Takasato đã từng biến mất, đúng không? Nói thật, thầy cũng không hiểu tại sao Takasato cứ cố chấp nhớ lại.”
“Vâng.”
“Nhưng có lẽ em sẽ hiểu.” Thầy Goto nói đơn giản.
“Em?”
“Hirose, ngoài em ra, không ai có thể làm được.”
Hirose hiểu thầy Goto ám chỉ điều gì, nhưng anh không biết phải trả lời thế nào.
* * * *
Người thanh niên vứt mẫu thuốc lá xuống đất. Giữa đêm tối, ánh lửa yếu ớt của tàn thuốc rơi xuất đất bùn rồi tan ra thành từng mảnh. Tiếng sóng biển vang bên tai, mặt trăng treo trước mắt, phía trên những cơn sóng biển đêm.
Cậu dùng mũi chân dập tắt mẫu thuốc lá đang cháy dở dưới đất rồi cho tay vào túi áo thun, do dự không biết có nên hút thêm điếu nữa hay không, nhưng rồi cuối cùng lại lấy ra bao thuốc lá. Ánh lửa hột quẹt cháy lên, mùi dầu bốc nồng nặc. Như muốn né tránh cái mùi khó ngửi ấy, cậu quay mặt sang một bên, tầm mắt hướng về chiếc xe hơi đậu dưới đê.
Cậu khẽ cười. Đối với thu nhập đến từ việc làm thêm và tiền gửi lên từ gia đình của một sinh viên đại học, chiếc xe này quả thật là xa xỉ. Nó được mua theo lời hứa với cha mẹ cậu rằng về quê làm việc. Thật ra, văn phòng chính của công ty đã nhận cậu vào làm tuy nằm ở vùng này, nhưng mọi việc kinh doanh đều diễn ra ở chi nhánh Tokyo. Hơn nữa, cậu cũng muốn được làm việc ở Tokyo và cơ hội ấy đang nằm trong tầm tay mình.
Cậu không hề cảm thấy có lỗi. Tất cả lũ con cái đều thế, và cha mẹ nào cũng vậy. Mấy đứa trọ cùng cậu cũng làm thế thôi. Cha mẹ thường muốn giữ con cái bên mình trong khi con cái thì luôn muốn bay khỏi nhà. Cha mẹ cậu cũng đâu có ở bên cạnh ông bà, vì thế nên cậu cũng không định sống cùng họ. Cha mẹ có vẻ như đã sắp xếp mọi việc để cả nhà được ở cùng nhau, tận hưởng cái cuộc sống tuổi già và bắt ép lũ con cái phải làm cái việc chúng không thích. Như thế cũng chẳng phải là trơ tráo sao?
Cậu vừa cười vừa phủi tàn thuốc lá xuống. Cậu vẫn còn đang thích ứng với chiếc xe mới này nên chưa thể lái đường trường được, việc cứ phải đi cái đoạn đường vắng vẻ về đến gần nhà đã trở thành một thói quen.
Nếu có cả bạn gái bên cạnh thì còn gì hoàn hảo bằng.
Nghĩ đến đó, cậu cười cay đắng. Cô bạn học cùng lớp cậu hẹn hò hồi hè đã bỏ theo một thằng dại gái. Có lẽ cậu đã yêu cầu cha mẹ mua xe quá trễ nên mới thất bại thế này.
Cậu lại phủi tàn thuốc xuống rồi ném điếu thuốc đi. Đầu điếu thuốc tạo thành một vòng cung đỏ thẫm khi nó bay đi và rơi xuống bãi biển. Nhìn điếu thuốc lướt giữa không trung, cậu thở dài và nhận thấy có một bóng người trên bờ cát.
Bãi biển này khá nhỏ. Hiện tại, thủy triều đang xuống nhưng khoảng cách chỗ này đến các con sóng cũng không xa lắm. Bóng người tiến đến gần bờ nước từ phía xa. Cậu thấy hơi ngờ ngợ nên tập trung nhìn kỹ hơn, đó là một cô gái trẻ.
Cậu vô thức xem lại đồng hồ, đã hơn một giờ sáng. Cậu nhìn quanh bãi biển, không còn ai ở đó ngoài cô gái nọ. Mà trông cũng không giống một đôi tình nhân hẹn hò lúc nửa đêm.
Cô gái dừng lại cách đó không xa, quay đầu nhìn cậu, im lặng một lúc rồi đi về phía cậu đang đứng. Cậu ngần ngại chờ đợi cô gái đến gần.
Khi lên đến bờ đê, cô ta lại đứng lại và nhìn cậu. Cô gái trông khoảng 20 tuổi, tuy không cực kỳ hấp dẫn, nhưng là dạng con gái cậu thích.
“Anh đi một mình à?” Cô gái hỏi.
“Ừ. Con gái như em sao lại ở đây một mình?” Cậu hỏi lại.
Cô dịu dàng gật đầu. “Anh chở em vào thành phố được không?” Giọng cô ta khá đáng tin.
“Được chứ.” Cậu trả lời.
Cậu cười qua loa, nhìn trái nhìn phải, hơi bối rối.
“Ở bên phải.” Cậu nói.
Chỉ cần bước xuống bên trái vài bước là đã đến được bãi cát, cậu đi xuống và chờ gần xe mình. Cô gái cũng nhanh chóng xuống bãi biển. Sau khi nhìn thấy cậu, cô leo xuống bờ đê. Trông cô khá nhỏ nhắn, gương mặt giống như của một thiếu nữ hơn.
“Em sống ở đâu? Anh sẽ đưa em về nhà.” Cậu hỏi.
Cô gái chỉ lắc đầu lo lắng.
Cậu nhíu mày. “Vậy em muốn anh đưa về nơi nào? Em chỉ nói vào thành phố thôi thì làm sao anh biết phải đi đâu chứ?”
Thiếu nữ cúi đầu, hơi ngây người ra. Cô bé chỉ cao đến vai cậu. Khi cô cúi đầu, mái tóc dài rơi xuống bờ vai, để lộ chiếc cổ nhỏ nhắn như trẻ con. Trông cô bé khá trầm tĩnh, có lẽ chỉ mới học cấp Ba.
“Thị trấn mới?” Cậu hỏi.
Cô bé thở phào rồi khẽ gật đầu. Cậu hơi nghi ngờ nhưng vẫn mở cửa xe.
oOo
Trong khi cậu lái xe, cô bé chẳng nói lời nào. Dù cậu khơi chuyện ra sao thì cô cũng chỉ gật và lắc đầu, không nói gì hơn.
“Bạn trai em bỏ rơi em à?”
Trước câu hỏi thẳng thừng thế này, cô bé cũng chỉ đơn giản lắc đầu như trước.
“Trễ thế này mà em còn làm gì ở chỗ đó?”
Cuối cùng cô bé cũng lên tiếng bằng một cái giọng đầy cô đơn. “Em đang tìm một thứ.”
Quả là một cô bé u sầu. Cậu nghĩ và đột nhiên thấy hơi khó chịu.
“Một mình ở đi dạo biển đêm chắc cũng không dễ chịu lắm.” Cậu nói rõ ràng.
Lúc đó, cậu chợt nhớ ra một câu chuyện ma mới nghe gần đây. Một người nào đó đã cho một cô gái đi nhờ xe và giữa đường, cô ta đột nhiên biến mất, đại loại thế.
Không thể nào. Cậu quay sang nhìn cô bé. Cô bé vẫn đang im lặng cúi đầu, dù nhìn thế nào thì trông cũng không giống hồn ma.
“Em tìm gì thế?”
Cô bé nghiêng đầu. “Kỳ.”
“Cây?” [Ghi chú: Trong tiếng Nhật, ‘kỳ’ đọc là ‘ki’, đồng âm với từ ‘cây’.]
Cây? Cậu nhìn cô bé.
“Em đang tìm kỳ, vì không tìm được cậu ấy nên em rất buồn.”
“Ồ?” Cậu trả lời đầy ngờ vực. “Em quen cậu ấy à?”
Cô bé chỉ lắc đầu.
“Kỳ là tên ư? Không phải cây bạch quả hoặc cây tùng sao?”
“Vâng.” Cô bé gật đầu. “Em đang tìm Thái Kỳ.”
“Thái Kỳ… là tên một cậu trai à?” Cậu hỏi.
Cô bé lắc đầu. “Cậu ấy không phải là con người.”
Trong khoảng khắc ấy, cậu tròn mắt nhìn cô bé. Trong lòng mình, cậu cho rằng việc này chẳng có ý nghĩa gì nhưng lại rùng mình khi cảm thấy bị nhốt vào một không gian nhỏ hẹp cùng một cô gái không rõ lai lịch.
“Anh có biết Thái Kỳ không?”
“Không…” Cậu vừa nói vừa đạp ga.
Đồng hồ tốc độ vọt lên. Dù đang chạy thử xe mới thì đây cũng không phải lúc nghĩ đến những việc thế này.
“Đến cổng thị trấn được không?” Như một lời nhắc lại hơn là một lời đề nghị. Cậu không muốn chở cô ta đi xa hơn.
Cô bé khẽ gật đầu. Cậu không nói gì rồi tăng tốc lên đèo.
oOo
Xe chạy được chừng mười phút thì những ánh đèn phía trước đã khuất dạng. Trời rất tối nên tất cả xe cộ đều phải chuyển qua đèn pha. Sau khi vượt qua một ngã tư, cậu có thể thấy bóng của khu thị trấn mới. Xung quanh, rất nhiều chiếc xe khác cũng đang đi ngang họ.
Cậu thở dài và nhìn về bên cạnh. Cô bé vẫn ngồi đó, cúi đầu. Cậu nghĩ cái sự sợ hãi của mình thật buồn cười và thử bắt chuyện với cô bé một lần nữa, cậu đã can đảm hơn một chút.
“Sắp đến rồi. Giờ em định làm gì? Anh để em ở cổng thị trấn nhé? Hay là…”
Đi tiếp…? Trước khi nói hết câu thì cậu đã á khẩu. Cô bé ngần ngại nhìn lên.
“Em…” Cậu muốn nói nhưng không thể thốt lên nổi lời nào.
Cả chiếc xe đã bị bóng tối bao phủ. Bóng của cậu phản chiếu trên tấm kính xe, cậu lại nhìn chiếc ghế kế bên, cô gái đã không còn. Cậu quay lại và nhìn vào gương chiếu hậu nhưng chiếc ghế vẫn trống rỗng, không một bóng người.
Một cơn ớn lạnh tràn lên từ gót chân. Cậu cố quay mặt về phía trước, ép mình không được nhìn cô gái ấy. Lúc đó, một tiếng rên rỉ chợt vang lên, như tiếng nhựa tan chảy. Ở khóe mắt của mình, cậu thấy gương mặt cô gái dần tan ra.
Cậu không nhịn nổi nên quay lại nhìn chiếc ghế kế bên. Tất cả những gì còn lại chỉ là một khối bong bóng to bằng một người đang tan chảy.
Cậu đạp thắng gấp. Theo quán tính, chiếc xe quay một vòng rồi dừng lại ngang giữa đường, cũng may lúc này không có xe cộ khác nào chạy qua.
Cậu điều chỉnh lại hơi thở của mình rồi nhìn lại. Trên chiếc ghế kế bên chỉ còn lại một vũng nước.
Chú thích
↑ Otaku (おたく) là một từ lóng trong tiếng Nhật dùng chỉ một kiểu người lập dị, kì quái, cô độc, không giao tiếp hay làm bạn với bất cứ ai trừ những người giống như họ hoặc dùng để chỉ một ai đó quá say mê một cái gì, đặc biệt là anime (hoạt hình Nhật Bản), manga (truyện tranh Nhật Bản), hay game (trò chơi điện tử). Chữ này theo thế giới lại được hiểu chung là những người đọc truyện tranh Nhật.