Đoạn kết 1
Độ dài 4,880 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-27 19:28:10
Mùa hè năm 2002, đảo Manhattan, New York
Sao mọi chuyện lại thành ra như này?
“Face to the wall!”
Tôi biết “face” với “wall” nghĩa là gì, nhưng mà “to” là cái gì cơ chứ...?
Có vẻ như bọn chúng không hề quan tâm đến chuyện tôi không thể nói được tiếng Anh.Ý tôi là, bọn chúng đã đập đầu tôi vào tường trước cả khi đưa ra lời cảnh báo ấy (nếu nó mang hàm ý kiểu vậy).
Tất cả đều bắt nguồn từ trò quay xổ sổ ở khu phố mua sắm chỗ tôi.
“Chuuuuuuúc mưưưưưưừng! Bạn đã trúng giải đặc biệt: một chuyến du lịch năm ngày, ba đêm tới Neeeew Yooooork!”
Đi kèm với tiếng thét điếc tai ấy, một hồi chuông ngân lên.
Keng-keng-keng-keng-keng...
Tôi đã tới nước Mĩ phồn hoa với âm thanh đó vẫn còn đang văng vẳng trong đầu.
Mặc dù tôi thực sự chỉ muốn giải nhì là cái máy chơi game console...
Tôi băng qua một rừng nhà cao tầng, hướng tới chỗ cầu Manhattan. Tôi đã quyết định là sẽ đến Chinatown để dùng món Trung Quốc. Khi bạn không biết mình nên ăn gì, hãy ăn mì: đó là lẽ hiển nhiên trên toàn thế giới.
Tuy được gọi là “giải đặc biệt,” song cái giải này lại chỉ cấp cho tôi một khoản bé con con, thế nên tôi không được phép tiêu xài quá hoang phí. Khoản trợ cấp của tôi eo hẹp đến nỗi mặc dù giải thưởng vốn dĩ là một chuyến du lịch hai người, tôi vẫn phải bán đi một cái vé để có thêm chút tiền tiêu.
Ở New York có một chuỗi nhà hàng cơm thịt bò kiểu Nhật, và tôi (cũng như ví tiền của tôi) thực sự rất hứng thú với nó, song cảnh tượng tên nhà hàng được viết bằng chữ Latin lại khiến tôi cảm thấy khó chịu. Tôi thậm chí còn chưa tọa lạc tại đây được một ngày, vậy mà tôi đã thèm khát các kí tự kanji biết bao.
Trong lúc vừa đi vừa nghĩ về mấy chuyện kiểu đấy, tai tôi chợt bắt phải tiếng ồn ào.
Năm hoặc sáu đứa trẻ đang hò hét trong một con hẻm nhỏ hướng ra khỏi đại lộ. Có vẻ như chúng đang bu lại xung quanh cái gì đó, nhảy nhót và kêu la liên hồi, thế nên tôi lại gần đó một chút, âu cũng chỉ để nhìn cho rõ hơn. Rồi một đứa nom như đứa nhỏ nhất trong đám nắm lấy tay tôi và cười thật tươi.
“Nhìn nè, nhìn nè!” thằng bé nói.
Cái gì đây?
Tôi cũng đang khá tò mò, thế nên tôi bước vào trong hẻm và nhìn vào chính giữa vòng vây.
--Rốt cuộc là sao? Chả có gì ở đây hết.
Vào khoảnh khắc tôi định mở miệng nói câu đó, tôi ngoảnh mặt ra sau lưng. Đám nhóc kia - vẫn đang cười đùa và hò hét - nhất loạt nhảy xổ vào tôi.
Phần còn lại thì xảy ra như những gì tôi nói lúc đầu.
Tôi đã luôn nghĩ rằng nếu bản thân bị lôi vào kiểu rắc rối này, tôi hoàn toàn có đủ khả năng để đưa ra quyết định đúng đắn và tự mình xử lí vấn đề... Nhưng mà cứ thử nhìn vào hiện thực xem: Bọn chúng thậm chí còn chẳng cho tôi thời gian để phản ứng nữa.
Tôi không biết chúng đã làm gì với tôi sau đó, hay bằng cách nào. Trước cả khi kịp nhận ra, tôi đã nằm trên mặt đường nhựa ấm nóng, và khi tôi kịp dựng mình dậy, đám nhóc kia đã nhanh chóng rút khỏi ngã rẽ rồi.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là “Cũng may mình không bị giết,” và rồi tôi chợt nhận ra là chúng đã lấy hết tư trang của tôi... Ừ, tôi không nghĩ đó là may mắn. Đáng lẽ ra tôi phải thấy biết ơn vì vẫn được sống tiếp, nhưng mà “Một khi hiểm họa đã qua,” vân vân và mây mây. Tôi thậm chí còn nghĩ “Ước gì mình đánh trả chúng nó được một cái.” Tôi biết đó là một suy nghĩ rất ích kỉ, nhưng nếu không nghĩ như vậy, tôi sẽ phải chịu thua mất.
Tôi chỉ mới bắt đầu sự nghiệp nhiếp ảnh gia hoang dã được ít lâu, và tôi còn mang cả một chiếc máy ảnh bên mình. Kết quả: tôi mất hết.
Mẹ kiếp, chúng mày có biết cái máy ảnh đấy đáng giá bao nhiêu trăm nghìn yên không hả?!
Tôi chỉ còn biết ngậm bồ hòn làm ngọt.
Tôi không thể kiếm được thứ gì để trút giận, cho nên tôi đành nén nó xuống, và tất cả những gì tôi làm là liên lạc với cảnh sát thông qua khách sạn. Nói theo một cách nào đó, việc tôi đang đi theo khuôn mẫu nạn nhân người Nhật xuất hiện nhan nhản trên phim ảnh và truyền hình còn làm tôi bực bội hơn cả việc bị lừa.
Phản ứng bên phía cảnh sát tương đối giống với suy đoán của tôi.
Họ đưa cho tôi một ít giấy tờ mà tôi cần phải điền vào để nhận tiền bảo hiểm. Một nhân viên khách sạn biết đôi chút tiếng Nhật đi đến sở cảnh sát cùng tôi, và theo lời anh ta, cảnh sát sẽ không bao giờ nghiêm túc bỏ công sức cho một vụ như thế này. Nếu tôi bị thương hoặc bị chĩa súng vào người, chuyện có thể sẽ khác, nhưng...
Tuy nhiên, cái máy ảnh đó cực kì đắt. Tôi gần như đã phải đánh đổi cả gia tài để có được nó, và tôi không thể đánh mất nó được. Dù sao đi nữa, tôi thậm chí còn chẳng có tiền để mua bảo hiểm cho nó mà.
Nếu tình hình không có gì thay đổi, thì ngay khi đặt chân trở lại Nhật Bản, tôi sẽ đi tìm cái gã đứng đầu khu phố mua sắm đã ban cho tôi cái chuyến du lịch này và đá vào gáy hắn theo tiếng gọi của cơn phẫn nộ lầm lạc.
Trong lúc tưởng tưởng đến cảnh đánh đập hắn bằng cây Shining Wizard khi hắn quỳ lạy dưới chân tôi, tôi tiếp tục giữ vững lập trường trong vô vọng. Viên cảnh sát tỏ ra rất đồng cảm, nhưng bầu không khí ở đây dường như đang muốn nói rằng họ thực sự cần phải ưu tiên những vụ giết người và các thể loại tội phạm nguy hiểm khác.
Rồi viên cảnh sát tóc bạc màu liếc nhìn bản báo cáo thêm lần nữa, cân nhắc địa điểm vụ cướp giật xảy ra, và thì thầm một hồi.
Người nhân viên đồng hành dịch lại những lời đó, và đây chắc chắn là những gì anh ta bảo:
“...Cậu biết đấy, có lẽ vẫn còn cách để cậu lấy lại cái máy ảnh. Thực lòng mà nói, tôi không khuyến khích cách này lắm, nhưng...”
-----
“Ái chà chà... Cậu đã có một ngày tương đối vất vả, đúng không?”
Người đàn ông xuất hiện ở điểm hẹn là một anh chàng trẻ tuổi, hiền lành.
Tóc nâu nhạt, kính tròn. Anh ta ăn mặc như một nhân viên ngân hàng kiểu mẫu. Anh ta nói tiếng Nhật nhuần nhuyễn tới nỗi ban đầu tôi còn tưởng anh ta là người Nhật, nhưng sau khi nhìn kĩ mặt anh ta thì tôi dám khẳng định là không phải, đến một chút cũng không.
Viên cảnh sát trung niên gọi một cuộc điện thoại, rồi chỉ đường tới địa điểm này cho tôi. “Cậu sẽ gặp một người đàn ông ở đây, hãy nhờ anh ta giúp. Không cần mang theo phiên dịch viên,” ông ta nói thế, và tất cả chỉ có vậy. Tôi vẫn nhớ là khi đó, ông ta mang một biểu cảm rất phức tạp.
“Cậu may thật đấy. Viên trung sĩ đảm nhận vụ của cậu là Paul Noah; ông ta là một người quen của tôi. Nếu không nhờ ông ta giúp đỡ, chắc hẳn cậu đã phải gương cờ trắng từ lâu rồi.”
Từ cái cách anh ta sử dụng những cụm từ như “giương cờ trắng,” rõ ràng trình độ tiếng Nhật của người này đã đạt ngưỡng tương đối cao. Và cách phát âm của anh ta cũng rất tự nhiên nữa... Dĩ nhiên, nếu so sánh với người hiện đại thông thường, thì ngữ điệu của anh ta có hơi cổ điển một chút.
“Tôi đã nghe chuyện của cậu. Cái đám cướp hành lí của cậu chắc hẳn là nhóm Bobby. Bọn chúng là một lũ trẻ nghịch ngợm thường xuyên lai vãng quanh khu vực này dạo gần đây.”
...Cái lũ đấy mà chỉ “nghịch ngợm” thôi á?
Có gì đó rất mờ ám ở người đàn ông này. Anh ta có lẽ là một thám tử, song bầu không khí xung quanh anh ta dường như đang mách bảo rằng anh ta đang giấu gì đó.
Dẫu vậy, tôi vẫn cảm thấy an tâm khi được trò chuyện với một người nói cùng thứ tiếng với mình.
Suy nghĩ ấy không kéo dài được lâu.
“Thế này thì sao? Để xem...đổi lấy mười phần trăm giá trị của chỗ hành lí bị mất cắp, tôi sẽ ‘đàm phán’ với chúng và hoàn trả lại hành lí cho cậu, giống như nó đã từng.”
...À, ra là vậy. Có vẻ như anh ta là kẻ cầm đầu bọn trộm cướp đấy. Để đổi lấy việc chỉ nhận được mười phần trăm lợi nhuận, anh ta sẽ có thể tránh gây ồn ào đến mức tối đa, và cũng không phải tốn công đổi đồ lấy tiền mặt nữa.
Cơ mà, tôi nghĩ mười phần trăm vẫn còn tốt chán nếu so với những lựa chọn khác. Tôi chấp nhận đề nghị của anh ta, mặc dù đã kết luận là không nên tin vào những gì anh ta nói.
“Được rồi. Thống nhất vậy nhé.”
Và như thế, người đàn ông đó bắt đầu dẫn tôi đi.
Chắc là anh ta không định cắt nội tạng của tôi rồi đem bán đâu nhỉ? Nỗi bất an chợt lướt qua tâm trí tôi, và tôi quyết định là sẽ gào lên thật to xong chạy trốn nếu anh ta tính đưa tôi tới bất cứ chỗ nào đáng nghi dù chỉ một chút.
Nhân tiện thì: Nếu tôi bị giết và có kẻ bán nội tạng của tôi, thì đó có được tính là buôn lậu người không?
Giữa lúc tôi đang vẩn vơ nghĩ ngợi mấy chuyện vô thưởng vô phạt như thế, anh ta dẫn tôi tới một quán rượu nằm gọn trong góc đại lộ.
Biển hiệu của quán có khắc hình một cái tổ ong. Trên cái hình đấy là một xâu kí tự, nhưng tôi không thể đọc được chúng, vậy nên để cho tiện thì tôi sẽ gọi nó là quán Tổ ong.
Hương mật ong ngọt ngào lan tỏa khắp bên trong quán. So với diện mạo bên ngoài, không gian phía sau nom tương đối rộng rãi. Nói cho chính xác thì nơi đây giống một nhà hàng cao cấp hơn là một quán rượu.
Hi vọng anh ta không định mổ bụng mình.
Tôi đảo mắt nhìn chung quanh, và tuy có thấy một vài người không giống những công dân gương mẫu lắm, song tôi cũng thấy cả người già, trai gái lẫn các gia đình có trẻ con, thế nên tôi thả lỏng một chút.
Anh chàng dẫn đường cho tôi đi sâu vào trong, trao đổi đôi lời với một người đàn ông khác. Người này lặng lẽ gật đầu, rồi đứng dậy và rời đi mà không hề mang theo vật dụng cá nhân gì. Anh ta thậm chí còn chưa trả tiền ăn.
“Tôi đã bàn giao việc cho anh ta. Anh ta sẽ đi lấy lại nó. Dân địa phương ở đây biết mặt lũ nhóc đấy. Tôi không nghĩ là tìm ra chúng sẽ mất nhiều thời gian đâu.”
Hay lắm. Biết ngay là anh cũng góp phần mà...
Dĩ nhiên, tôi không nói câu đấy thành tiếng.
“Chà, sao chúng ta không nói chuyện một lát trong lúc đợi nhỉ?”
Đó là một lời mời hết sức thành thật, nhưng tôi lại không biết nói gì cả. Vậy nên, để mào đầu, tôi hỏi tại sao anh ta lại thành thạo tiếng Nhật đến thế.
“À, cái đó à. Một trong số những người đứng đầu tổ chức của tôi là người Nhật... Tên ông ấy là Yaguruma-san; ông ấy có dạy cho tôi kha khá. Ngoài ra, tôi cũng học hỏi ngữ điệu thời nay thông qua phim ảnh và truyện tranh Nhật.”
Tổ chức. Liệu có phải anh ta thực sự là Mafia hay gì đó tương tự không? Giờ đã đi đến tận nước này, tôi cũng đã trở nên tương đối liều lĩnh, và tôi không quan tâm chuyện anh ta là Mafia hay là bất cứ thứ gì khác, thế nên tôi thẳng thừng hỏi anh ta.
“Không, không phải Mafia. Thường thì bọn tôi cũng hay bị coi là thế, nhưng mà... tên thật của bọn tôi là Camorra. Cậu biết về nó chứ?”
Tôi chưa nghe thấy cái từ đó bao giờ.
“Mafia bắt nguồn từ Sicily, thuộc Italy. Tổ chức của họ có tiền thân là các nhóm cảnh vệ có vũ trang ở vùng nông thôn... Băng Camorra cũng mang gốc gác Italy, nhưng lại bắt nguồn từ Naples. Nghe nói tổ chức được thành lập trong nhà tù, song ngay cả tôi cũng không rõ chuyện đó lắm.”
Thành lập ở trong tù. Chỉ riêng chi tiết đó thôi cũng làm tôi thấy cái băng Camorra này dơ bẩn hơn cả Mafia, song tôi giữ lại suy nghĩ ấy cho riêng mình.
“Tôi đảm nhận vị trí contaioulo, tức thủ quỹ, trong tổ chức. Nói cho đúng thì tôi giống người giữ sổ sách hơn... Đối với Mafia, công việc này sẽ được giao cho kế toán viên phụ trách.”
Tôi chẳng thấy mấy thứ đấy khác nhau ở đâu cả.
“Ha-ha... Chà, bởi vì ngày nay tất cả đều bị quy thành “Mafia” đấy. Mafia buôn ma túy, Mafia Tàu, Mafia Nga, Mafia buôn lậu... Nhưng ở Naples, Camorra mới là băng chiếm ưu thế. Tuy nhiên, tổ chức của chúng tôi lại là ngoại lệ: Chúng tôi không những được thành lập ở Mĩ, mà còn không có mối quan hệ trực tiếp nào với Naples.”
Anh ta còn đưa ra thêm đủ loại thông tin nữa, song tôi hầu như chẳng hiểu gì cả. Tôi thậm chí còn chưa từng đụng phải băng nhóm Nhật Bản nào trước đây. Sự thật rằng một thành viên băng Camorra - một người đàn ông sống trong mặt tối của xã hội - đang ngồi ngay trước mặt tôi chỉ đơn thuần là quá phi thực.
“Như vậy là bình thường mà. Ngay cả với người dân New York, tôi cũng có thể khẳng định rằng chưa đến một phần trăm trong số họ đã từng chạm trán với Mafia. Khẳng định trên vẫn đúng nếu áp dụng với những người đã từng trực tiếp bị bọn chúng hãm hại. Tôi là một người khá thẳng thắn, và đôi lúc tôi cũng giới thiệu bản thân mình với những người như cậu. Tuy nhiên, tôi dám chắc rằng số người mà tôi từng trò chuyện chỉ là một phần rất nhỏ trong một phần trăm đó thôi.”
...Nghiêm túc nhé. Chừng đó là quá đủ để tôi bật khóc vì vận may của mình rồi đấy.
Dẫu vậy, trong suốt khoảng thời gian ấy, tôi đã bị kĩ năng giao tiếp của anh ta thu hút từ lúc nào không hay. Tôi không biết mình nên diễn đạt kiểu gì cho chuẩn. Tôi bắt đầu cảm thấy như thể đang trò chuyện với một người đã quen biết từ lâu... Mặc dù tại thời điểm đó, vẫn chưa có ai trong số chúng tôi biết tên của người kia.
“Chà... Thực ra thì có thể có nhiều người hơn thế, song những người từng cảm thấy sự hiện diện của Mafia hầu như chẳng bao giờ nói về chuyện đó cả, cậu biết mà.”
Tôi đã từng nghe đến nó trong phim ảnh. Đại để thì nó cũng giống như omertà, “luật im lặng,” được biểu hiện khi mọi người giả vờ như chưa từng thấy các hành vi phạm pháp vì sợ bị trả thù.
Nhưng nếu vậy thì... Tại sao người đàn ông này lại nói về tổ chức của mình với một người mà anh ta vừa mới gặp?
“Ha-ha... Đơn giản là, không như các tổ chức khác, tổ chức của bọn tôi không quá nghiêm khắc về mặt luật lệ. Chúng tôi cũng chẳng tham gia vào sự vụ tàn ác nào hết... Trong mọi trường hợp, thành viên của các băng Mafia vùng Sicily thậm chí còn không được tiết lộ thân phận cá nhân, nhưng mà băng Camorra - và Mafia Mĩ, từ cách đây rất lâu - lại thường hay tự giới thiệu về mình như vậy. Các vị thủ lĩnh đôi khi còn tự thân đi trả lời phỏng vấn nữa.”
Vậy tức là các anh chỉ là một lũ khoe mẽ? Khi tôi hỏi câu ấy, một thoáng im lặng trôi qua, rồi anh ta chợt phá lên cười.
Sau khi cười được một hồi, anh ta nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thích thú, và bắt đầu trò chuyện trở lại.
“...Cậu cũng có gan đấy. Dám thẳng thừng nói một câu như vậy với thành viên Camorra... Cậu không sợ ư?”
Không.
“Chẳng lẽ cậu nghĩ tôi không phải là xã hội đen?”
Không. Cho dù anh có nói dối đi nữa, tôi cũng không thấy lý do gì để anh phải nhọc công giả vờ làm Camorra cả.
“Cậu lạ lùng thật đấy. Khi tôi nghe kể về cậu từ Paul, tôi cứ tưởng cậu chỉ là một tên người Nhật ngốc nghếch.”
Lo chuyện của riêng mình đi. Với lại, nếu như anh đã thành thạo tiếng Nhật đến thế, thì anh nên gọi người lớn tuổi hơn mình cho chuẩn vào; dùng “-san” ấy. “Paul-san,” kiểu như vậy. Ngay cả khi Mĩ là một quốc gia không đặt nặng chuyện tuổi tác, thì ít ra anh vẫn phải nói về người lớn tuổi theo những phép lịch sự cơ bản nhất... Hay đó là những gì mà quyển hướng dẫn bảo.
Vào khoảnh khắc ấy, tôi đã không ngờ rằng lời bình phẩm tình cờ này lại chính là công tắc đưa cuộc đời tôi sang một hướng mới.
Sau một khoảng lặng dài hơn cả khoảng lặng ban nãy, người đàn ông chợt chặc lưỡi và khẽ thì thầm.
“Sự tình cờ...quả thực rất hấp dẫn. Đúng là như vậy nhỉ?”
Anh ta đang nói gì vậy chứ? Trong lúc tôi ngơ ngác ngồi đó, người đàn ông đột nhiên nở một nụ cười gần như là ngây thơ. Đó là nụ cười gợi liên tưởng đến một đứa trẻ vừa có đồ chơi mới, hoặc là đang dàn dựng một trò đùa, và nó đang hướng thẳng về phía tôi.
Rồi sau khi nhìn tôi như thể không biết có nên tiết lộ ra hay không, anh ta hạ giọng xuống và đáp:
“Paul trẻ hơn tôi.”
Ồ... Hả? Đợi chút đã, anh vừa mới nói gì cơ? Không cần biết anh nhìn nhận viên cảnh sát đó như thế nào, tôi khá chắc là ông ta cũng phải quá năm mươi... Có phải ông ta chỉ đơn thuần là già trước tuổi hay gì đó không?
“Chà, về chuyện đó thì... Hãy quay trở lại chủ đề chúng ta vừa mới nói lúc trước: Đã có khoảng một trăm người trong suốt hơn sáu mươi năm qua. Những người đã từng nghe tôi giới thiệu về thân phận trong Camorra, ý tôi là như vậy. Trong đó không bao gồm cảnh sát hay những người đã biết từ trước, nhưng mà... Dù sao đi nữa, nếu như không có những chuyện kiểu này, thì tôi cũng chẳng bao giờ có cơ hội được làm thân với những du khách thành thực như cậu đâu. Ha-ha.”
Tôi nghĩ mình vừa mới nghe lầm. Sáu mươi năm. Người đàn ông trước mặt tôi đã... Tôi không giỏi đoán định tuổi của người khác dựa trên vẻ bề ngoài, nhưng trông anh ta thậm chí còn chẳng giống người đã bước qua tuổi ba mươi nữa.
Trông thấy ánh mắt đăm đăm và ngỡ ngàng của tôi, người đàn ông chỉnh lại gọng kính và nói, giọng thấp thoáng đôi chút ngượng ngùng:
“Sự thật là, cậu thấy đấy, tôi nghĩ cậu có thể gọi tôi là người bất tử. Tôi không thể chết.”
A ha. Vậy ra đây là một trong số những trò đùa của người Mĩ.
“Ồ, có vẻ như cậu không tin tôi. Không, tôi nói thật đấy: Cậu có thể chém tôi hay thiêu tôi, nhưng tôi vẫn sẽ không chết.”
Nghe nói người Mĩ nổi tiếng có cái kiểu đùa rất dai.
Tôi đáp trả anh ta một cách chiếu lệ, và, miệng vẫn mỉm cười, người đàn ông đó...
...rút một con dao từ trong túi ra và đâm nó vào tay mình.
Trong một thoáng, tôi không tài nào hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Máu đỏ bắt đầu nhỏ xuống từ bàn tay mà lưỡi dao cắm phải. Tôi hoàn toàn chết lặng, song người đàn ông kia chỉ bật cười.
“Không sao đâu... Nhìn này.”
Anh ta từ từ rút con dao ra. Tôi cứ nghĩ máu sẽ văng tung tóe, nhưng chẳng có giọt máu nào chảy ra cả.
Không những vậy, tôi còn được thấy một chuyện khó tin hơn nữa.
Những giọt máu vừa mới nhỏ xuống mặt bàn...bắt đầu động đậy, như thể bản thân chúng cũng có sinh mệnh riêng...và lao vụt trở lại miệng vết thương của người đàn ông, không khác gì trở lại vật chủ của mình. Khi toàn bộ chỗ máu đã biến mất, miệng vết thương cũng tự động khép lại. Đến cả một vệt máu trên mặt bàn cũng không có.
Nếu được thấy khung cảnh này trên màn hình, chắc hẳn tôi sẽ coi nó là một trò hiệu ứng rẻ tiền và làm lơ nó. Thế nhưng, không may thay, nó lại xảy ra ngay trước mặt tôi.
Cả cái cách những giọt máu chống lại trọng lực, lẫn cái cách vết thương lành lại trong tức khắc đều giả tạo đến nỗi tôi nghĩ CGI thậm chí còn có thể làm tốt hơn. Nó chỉ khiến cảnh tượng đáng sợ hơn gấp bội.
Tôi chợt nghĩ mình là người duy nhất ở nơi này - không, trên toàn thế giới - từng được chứng kiến một cảnh tượng bất thường đến thế kia. Ngay tại đây, trong cái nhà hàng mang dáng vẻ sang trọng này, một người đàn ông vừa mới đạp đổ quy luật của vật lí.
...Vậy mà không có một khách hàng hay nhân viên nào nhìn về phía chúng tôi cả.
Sau khi suy nghĩ một hồi, tôi quyết định lên tiếng...với thứ gì đó...ở trước mặt tôi.
Anh có định giết tôi không? Tôi hỏi.
Người đàn ông nom đôi chút bất ngờ trước câu hỏi ấy. Rồi anh ta lại mỉm cười.
“Đó là một phản ứng mà tôi chưa từng thấy đấy. Từ trước đến nay, mỗi khi tôi cho người khác thấy cảnh này, thì một là họ làm dấu thánh giá, hai là họ rút súng ra và bắn tôi... Dĩ nhiên, cảnh sát luôn đi theo hướng cuối cùng. Lũ ác quỷ tội nghiệp; tôi nghĩ như vậy có phần hơi cay nghiệt quá. Giờ nghĩ lại thì, hình như cũng có một vài người bỏ chạy ngay khi thấy con dao.”
Ờ, tất nhiên.
“Sao cậu lại nghĩ là tôi sẽ giết cậu?”
Bởi tôi nghĩ anh là quái vật, tôi thành thực trả lời. Rồi tôi xin lỗi vì đã coi anh ta là quái vật, và đồng thời tôi cũng nhắc nhở anh ta rằng, cho dù đó có là thật hay giả, thì anh ta cũng không nên dọa người khác như thế.
“...Quả nhiên cậu đúng là lạ lùng thật. Chưa từng có ai bình tĩnh đến vậy trước đây.”
Gọi là “vô cảm” thì có lẽ sẽ chính xác hơn so với “bình tĩnh.” Tôi đã từng nghe người ta nói như này không biết bao nhiêu lần, song rõ ràng cơn sốc vì suýt bị một con gấu nâu ở Hokkaido ăn thịt đã làm tê liệt mọi cảm giác sợ hãi trong tôi. Tôi từng được khuyên nhủ là nên trở thành một nhiếp ảnh gia chiến tranh, nhưng tôi lại chẳng biết chút gì để tồn tại trên chiến trường, nên là tôi chắc chắn sẽ chết. Mà tôi lại không muốn chết, nên cuối cùng tôi vẫn chọn trở thành một nhiếp ảnh gia hoang dã.
Khi tôi thuật lại những điều đó, anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi. Có vẻ anh ta đang rất hứng thú.
“Cậu cũng khá là thú vị đấy... Nghe này, sẵn tiện đang ở đây, cậu muốn nghe tôi kể về chuyện ngày xưa chứ? Chuyện về cái cách tôi đạt được sự bất tử, và những mẩu chuyện lạ lùng xoay quanh nó... Đó chắc hẳn sẽ là một cách hay để giết thời gian.”
Đó quả thực là một câu chuyện rất hấp dẫn...nhưng mà để tôi nghe về nó liệu có ổn không? Chúng ta chỉ vừa mới gặp thôi mà.
“Không sao. Cho dù cậu có kể lại cho người khác đi nữa, tôi cũng không nghĩ là họ sẽ tin đâu.”
Tôi nói với anh ta, giọng vô cùng quả quyết, rằng chuyện này tốt nhất không nên là thứ gì đó mang hơi hướng tôn giáo. Có một người bất tử đang ở trước mặt tôi, và tôi không hiểu sao mình lại bình tĩnh đến vậy. Tôi nghĩ mình đích thị là một tên ngốc.
“À, đừng lo. Nó không liên quan gì đến chuyện đó cả. Nó thực sự chỉ là một cách để giết thời gian thôi... Mặc dù tôi nhớ là một con quỷ cũng góp phần trong câu chuyện này.”
Người đàn ông tự gọi mình là contaiuolo của Camorra, một người rõ ràng là đã trở nên bất tử, gọi bồi bàn đến để đặt đồ ăn, và rồi chậm rãi bắt đầu “huyền thoại” của mình.
“Được rồi. Tôi bắt đầu nhé... Đây là câu chuyện về một người đàn ông đã uống thứ chất lỏng của quỷ và đạt được sự bất tử. Một câu chuyện dài, rất dài về người đàn ông khốn khổ, cô độc ấy. Sân khấu là New York thời cấm rượu. Nội dung câu chuyện là số phận kì lạ xoay quanh sự xuất hiện đột ngột của “thuốc trường sinh,” cũng như vòng xoáy của những con người bị cuốn vào đó...”