Chương 3
Độ dài 4,770 từ - Lần cập nhật cuối: 2024-05-31 20:32:29
Dẫu đang nghỉ hè, học sinh vẫn phải dành ra một ngày để đến trường. Đã được mấy tuần rồi chúng tôi mới trở lại trường, và các bạn cùng lớp vừa mới om sòm cả buổi nay giờ đường ai nấy về, khiến cho bầu không khí tĩnh lặng ngày hè một lần nữa trùm lấy căn phòng học.
“Em vẫn chưa quyết định được sao?” thầy giáo chủ nhiệm hỏi tôi từ bàn đối diện. Thầy bảo tôi ở lại sau giờ họp lớp để bàn về kế hoạch học hành tương lai của tôi.
“Dạ, em chưa,” tôi trả lời.
“Đừng nên chần chừ nữa. Với sức học của em thì trường nào em cũng chinh phục được thôi.”
Trên tay thầy đang giữ bảng điểm của bài thi thử. Trên bảng điểm đó có liệt kê điểm thành phần của năm môn thi theo thang điểm từ A tới E, và tôi đạt toàn A. Lần trước tôi cùng thầy cũng đã thảo luận về vấn đề này, khi ấy đang trong học kỳ xuân. Với vai trò là người hướng dẫn, công việc của thầy là giúp tôi định rõ hướng đi sau khi tốt nghiệp, tôi muốn vào trường đại học nào và sau này ra làm công việc gì. Hôm đó tôi chưa đưa ra câu trả lời cụ thể, và hôm nay cũng vậy.
“Em đang tính bàn bạc với mẹ rồi quyết định sau ạ.”
“Thế thì tốt. Chí ít hãy nghĩ ra được vài lựa chọn trước khi hết giờ giải lao nhé.”
Cuộc thảo luận từ nãy giờ đều xoay quanh trường hợp tôi sẽ học đại học sau khi tốt nghiệp cấp ba. Và qua giọng điệu của thầy, tôi có thể đoán được thầy mong tôi sẽ xét tuyển vào những trường đại học hàng đầu, tương xứng với thực lực của tôi. Suy cho cùng, càng nhiều học sinh thi đỗ vào các trường đại học danh tiếng thì càng mang lại nhiều uy tín cho thầy. Tôi nghĩ bụng thầy tận tình giúp sức đến vậy nên chắc đó phải là lý do rồi.
“Trời ạ, thầy ước học sinh nào cũng xuất sắc được như em,” thầy thở dài. “Nếu thế thì đỡ nhọc hơn bao nhiêu.”
Sau khi rời khỏi khuôn viên trường, tôi đón chuyến tàu về nhà. Dưới ánh nắng tháng Tám gay gắt, con đường từ ga tàu về khu chung cư tôi ở như muốn nổi lửa, may thay đã có hàng cây cao lớn dọc vỉa hè vươn cành ra che chở lấy.
Tôi sải bước qua một chiếc ghế dài nơi một đôi vợ chồng cùng đứa bé sơ sinh đang ngồi nghỉ. Gia đình họ trông thật đầm ấm. Tôi tự hỏi liệu rằng lúc tôi còn thơ bé, không khí gia đình tôi có vui vẻ như họ không. Theo tôi nhớ, không một ngày nào ba mẹ không cãi nhau. Đến lúc tôi gần lên cấp hai, hai người họ đã cắn rơm cắn cỏ mà ký giấy ly hôn, và tôi sống với mẹ từ ngày đó trở đi.
Tôi đi thang máy tới tầng mình sống và tự mở cửa vào nhà. Mẹ tôi làm việc đến tận tối muộn, cho nên tôi sẽ được tự do trong vài tiếng đồng hồ. Tôi bật điều hòa trong phòng ngủ, thay bộ đồng phục đã ướt đẫm mồ hôi bằng bộ đồ mặc ở nhà. Đoạn, tôi mở cửa tủ quần áo và lấy ra cuốn sổ vẽ được giấu bên dưới chồng đồ ấm dày cộm. Bức vẽ mới nhất là một bản phác thảo Summer Ghost vào dạo nọ, lúc ở quán cà phê với Ryo và Aoi. Bức tranh gần giống hoàn toàn với người thật làm cả tôi cũng phải ngạc nhiên, dù nó đã được vẽ trước khi chúng tôi gặp Ayane.
Tôi phải giấu cuốn sổ này tận ở đáy tủ quần áo khỏi mẹ tôi, hệt một tín đồ Thiên Chúa phải giấu dây tràng hạt của mình bên dưới tấm ván lót sàn vào giai đoạn tôn giáo này bị đàn áp trong thời kỳ Tokugawa. Tôi biết nếu để bà phát hiện ra, ắt hẳn bà sẽ quẳng nó vào thùng rác, chung số phận với đám giá vẽ, khung tranh, màu và cọ vẽ trước kia. Mẹ thậm chí còn chẳng cho tôi giữ những tấm bằng khen mà tôi được trao hồi thi vẽ. Bà cho rằng mấy thứ đó chỉ tổ làm ảnh hưởng đến thành tích học tập của tôi. Song tôi vẫn lén lút tập vẽ cho tới tận hôm nay. Nhỡ để bà phát hiện ra chắc tôi bị đuổi khỏi nhà mất.
Tôi mở nhạc và múa bút vài đường để giết thời gian. Tôi cố hình thành thói quan tập vẽ thường xuyên nhất có thể để không bị lụt nghề. Tay cầm lấy chiếc bút chì ngòi mềm và bắt đầu vào việc, phác lên khắp mặt giấy. Trước tiên, tôi phác thảo cảnh ba đứa bọn tôi đang dần tiếp cận phi trường bỏ hoang. Kế đến, tôi vẽ đường băng nhìn qua lớp hàng rào lưới thép han gỉ, kéo dài đến tận đường chân trời. Và cuối cùng, tôi vẽ Ayane theo như hình dung trong trí nhớ.
Nghĩ lại thì, toàn bộ trải nghiệm đó thật vô thực làm sao, đến mức tôi tưởng chừng rằng những gì mắt đã thấy, tai đã nghe cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. Mỗi tội ba đứa bọn tôi đều chìm trong một giấc mơ y hệt nhau. Nhưng không, Summer Ghost là có thật, và chúng tôi đã được tiếp xúc với cô ấy. Tôi có thể chứng thực thông qua cái tên đó: Sato Ayane.
Tối hôm ấy sau khi vừa về nhà, tôi liền lên mạng tra cứu với hy vọng có thể tìm được chút thông tin về danh phận của hồn ma kia, và rồi tôi kiếm được vài mẩu tin đề cập đến Sato Ayane hợp với mô tả. Một cô gái hai mươi tuổi đã mất tích ba năm trước mà không ai hay, chỉ vài tuần trước khi Summer Ghost được nhìn thấy lần đầu tiên. Giả sử như cô ấy mất tích và giờ đã chết thì các mốc thời gian sẽ khớp hoàn toàn với nhau. Hồn ma chúng tôi đã tận mắt thấy không phải là ảo ảnh hay do mơ ngủ, mà là linh hồn của một con người đã từng sống và chết ngay trên mảnh đất nơi tôi ở.
Lúc mẹ tôi bước chân vào tiền sảnh thì trời đã chập tối. Tôi liền đóng cuốn sổ vẽ lại và giấu nhẹm đi, đồng thời cất cả hộp bút chì vẽ vào trong ngăn bàn, sau đó ra ăn tối cùng mẹ. Bữa tối hôm nay là tập hợp đủ thứ món chế biến sẵn do mẹ tôi mua trên đường về. Chỉ những hôm mà bà tan làm sớm mới có món nóng sốt, song thi thoảng tôi vẫn tự nấu bữa tối cho cả hai.
“Hôm nay con đến trường phải không?” Bà cất tiếng hỏi. “Học hành ra sao?”
“Ổn ạ,” tôi đáp. “Giống như mọi ngày thôi.”
“Giống như mọi ngày là sao? Con không nói rõ hơn được à?”
Mẹ tôi là một chuyên viên ngành khoa học tự nhiên hiện đang làm việc tại một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới sau khi tốt nghiệp đại học. Bà không hề thích những câu trả lời úp úp mở mở.
“Có nghĩa là không có bất cứ chuyện gì thú vị hay bất bình thường để mẹ con mình bàn luận thêm thôi ạ,” tôi trả lời cực kỳ chi tiết.
Tôi chăm chú nhìn hành động buông đũa của bà, trong đầu thầm tưởng tượng bà sẽ phản ứng ra sao nếu hay tin tôi chết. Liệu bà có rơi lệ không? Tôi đoán ắt là có. Rồi bà sẽ nhớ về quãng thời gian đầm ấm trước kia, cái thời mà tôi còn quấn tã, hay hồi tôi đi học mẫu giáo và những khoảnh khắc có tôi bên cạnh, để rồi cảm giác trống vắng sẽ lần mò tới chiếm hữu. Dù phải cam chịu đủ điều, tôi vẫn giữ trong tim chút tình cảm đối với người phụ nữ đã cất công sinh thành dưỡng dục mình. Và phần nào trong tôi đang ghê tởm bản thân vì muốn rũ bỏ sự sống mà bà đã trao cho, sẵn sàng để mặc bà cô đơn trong ngôi nhà lạnh lẽo này.
Sau khi xong bữa, tôi và mẹ thảo luận về kế hoạch học tập sau này. Bà mang chiếc máy tính xách tay để lên bàn và bày ra một bảng thống kê điểm số quá trình cùng điểm thi thử của tôi.
“Bài kiểm tra toán chỉ thiếu chút nữa thôi là đã được điểm tuyệt đối rồi, ấy vậy mà con lại để sai một câu cơ bản như vậy,” bà cằn nhằn. “Thật không thể chấp nhận. Lần sau phải làm tốt hơn đấy.”
Bà tiếp tục chỉ vào tờ thống kê và rầy la tôi hết lần này đến lần khác vì những lỗi sai nhỏ nhặt xuất hiện trong bảng điểm. Mẹ trước giờ chẳng khen tôi lấy một câu, kể cả khi tôi đạt toàn điểm A. Bà cho rằng khen thưởng sẽ làm tôi tự mãn và chủ quan trong các bài kiểm tra sau. Việc tôi cần làm là tiếp tục diễn tròn vai một đứa con ngoan trò giỏi. Không phải để làm bà hài lòng, mà là vì không muốn phụ lòng bà. Mặc dù vậy, khi vào tiểu học, tôi đã dần biết lên tiếng bảo vệ chính kiến của mình thay vì gió thổi chiều nào theo chiều nấy.
Song, mỗi lần tôi làm vậy, bà sẽ chỉ đáp. “Mẹ bảo ban vì muốn tốt cho con cả thôi. Mẹ lo cho tương lai của con. Mẹ muốn con được hạnh phúc.”
Đó là những lần bà để lộ bản năng của một người mẹ đằng sau vẻ bề ngoài cứng nhắc kia, và tôi lại dấy lên cảm giác tội lỗi vì không biết suy nghĩ sâu xa. Kết cuộc, tôi đành nhượng bộ và vâng lời bà vì sự hàm ơn đấng sinh thành hay bị trói buộc bởi đạo làm con.
“Mẹ vừa chọn được vài đại học hợp với con này,” bà tiếp tục thuyết giảng. “Mỗi trường đều có thông tin quảng cáo ở đây, lát nữa con nhớ xem qua.”
Mẹ tôi đã thu thập hàng tá tài liệu từ tất cả những trường đại học tiềm năng do đích thân bà chọn lựa, và chúng được xếp chồng thành một đống ở trên bàn. Chỉ khi tôi là một con rối vô tri không có khả năng tự chủ, tôi mới lấy làm vui với công sức của mẹ khi bà đã lên kế hoạch tỉ mỉ cho trường đại học và cuộc sống tương lai của tôi.
“Vâng ạ. Con sẽ xem qua và chọn lọc vài trường,” tôi nói, đoạn bê chồng tập quảng cáo lên. Phản ứng này coi bộ làm mẹ tôi vừa lòng, và tôi cũng khẽ thở dài nhẹ nhõm. Sống với bà cứ như đang chơi một trò chơi tâm lý khi mà tôi phải duy trì cảnh giác cao độ mọi lúc, song cho tới giờ tôi vẫn chưa vạ miệng lần nào khi nói chuyện với bà, nhờ vậy mỗi đêm tôi mới yên giấc khi không khiến bà nổi đóa và lại phải ngồi nghe nói đạo lý.
Tôi không ghét mẹ mình, một chút cũng không. Tôi nhận thức được công việc gian khổ của bà, làm việc cho đến tận khuya ở chính chiếc bàn này, để nuôi sống cả gia đình. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bà ngủ thiếp đi trên bàn, trước mặt là chiếc máy tính vẫn còn đang mở, và tôi phải lấy chiếc áo len choàng lên người mẹ để bà không bị cảm. Tôi nghĩ bản tính khắt khe của mẹ là một cách riêng để bà thể hiện tình yêu của mình (dù có phần cổ hủ), và tôi thực sự biết ơn sự quan tâm săn sóc của bà. Song nhiều lúc, sự chăm lo thái quá ấy khiến tôi như bị bóp nghẹt.
Dường như mẹ tôi nghĩ vứt hết mớ họa cụ yêu thích mà tôi giữ từ thời trung học là tốt cho tôi, bà cho rằng việc tôi dành quá nhiều thời gian cho sở thích riêng sẽ phí hoài cơ hội học tập quý giá dẫn đến tương lai của tôi bị hủy hoại. Mẹ tôi thực sự tin rằng nếu tôi trượt kỳ thi đầu vào, tôi sẽ trở thành một kẻ bị xã hội ruồng bỏ suốt phần đời còn lại, kiếm sống qua ngày bằng thứ nghề nghiệp rẻ rúng thấp hèn. Theo quan niệm của bà, không còn lựa chọn nào khác ngoài phải loại bỏ những yếu tố gây sao nhãng này một lần và mãi mãi.
Mẹ và tôi thay phiên nhau dọn dẹp sau mỗi bữa tối. Hôm nay đến lượt bà rửa bát đĩa, thành ra tôi là người đi tắm trước. Hai mẹ con tôi thường dành những tiếng đồng hồ cuối cùng trong ngày trước khi đi ngủ để làm những việc cá nhân, hiếm lắm tôi với mẹ mới ngồi lại và xem TV cùng nhau.
Khi đến giờ đi ngủ, tôi leo lên giường và đợi cơn buồn ngủ đến chiếm lấy, bất chợt những dòng suy nghĩ về ba tôi lại xuất hiện. Ông là một người đàn ông cao lớn, tựa một người khổng lồ tốt bụng vì tôi chưa từng thấy ông nổi giận. Ấn tượng về tính tình của ông đã in đậm trong tôi, bởi trái ngược với đó là cộc cằn của mẹ mỗi khi hai người họ nảy sinh bất hòa. Ông thành thạo tiếng Anh và làm nghề phiên dịch để kiếm sống. Lúc nhỏ ông đã ở Mỹ một thời gian, vì lẽ ấy mà khả năng ngoại ngữ của ông mới cao siêu như vậy. Vào thời điểm này, ông bà nội đã đưa ông đi làm nghi thức rửa tội, và ông theo đạo Công giáo kể từ đó.
Tuy nhiên, ông không hẳn là một tín đồ sùng đạo bởi lẽ tôi chưa khi nào thấy ông cầu nguyện trước bữa ăn. Ông đều đi lễ vào mỗi Chủ nhật và đôi lúc quyên góp chút ít cho nhà thờ, song chỉ có thế. Tôi không biết được đức tin của ông to lớn tới nhường nào, nhưng tôi nghĩ chí ít nó vẫn giúp ích (gián tiếp) cho công việc phiên dịch của ông. Với ba phần tư dân số Mỹ theo đạo, việc hiểu biết sâu sắc về suy nghĩ và đức tin của các tín đồ giúp ông nắm bắt được nhiều khía cạnh chuyên sâu về văn hóa nước Mỹ so với người bình thường.
Ở mặt khác, mẹ tôi là một con người theo chủ nghĩa vô thần, tôi khá bất ngờ khi bà lại là người có ý định kết hôn với ông ấy dù cuộc hôn nhân thật chóng vánh. Dẫu vậy, hai người đã trải qua quãng thời gian yêu đường nồng thắm, coi bộ hình ảnh ngôi nhà cùng những đứa trẻ đã khỏa lấp sự đối lập về đức tin giữa hai người. Theo tôi biết, mẹ tôi không hề quở trách ba vì đức tin của ông, suy cho cùng đây là quốc gia đề cao sự tự do tôn giáo. Duy chỉ có việc dẫn tôi đi nhà thờ vào cuối tuần là bà cấm tiệt. Bà cho rằng ba tôi không có quyền lôi kéo tôi theo con đường Công giáo, nhất là khi tôi còn quá nhỏ để tự quyết định mình nên tin vào điều gì.
Thế là ba tôi sống một cuộc đời hướng về Chúa, còn mẹ tôi theo chủ nghĩa mắt thấy tai nghe, và trong kỳ trăng mật, họ đã chấp nhận niềm tin của mỗi người. Song không kéo dài được lâu.
Tôi vẫn nhớ lúc mà cuộc hôn nhân đang trên bờ vực đổ vỡ, khi mà ba tôi không có ở nhà và mẹ đã bộc bạch cảm xúc thực sự của mình.
Bà xỉ vả “Ba con không thể tin vào mấy điều vô lý kia… Cái gì mà thánh thần công đức vô lượng lơ lửng trên trời chứ? Thật nhảm nhí…”
Sau khi việc ly hôn đã giấy trắng mực đen, bố tôi sẽ phải chuyển ra ngoài, mẹ tôi chẳng chần chừ mà vứt bỏ sạch đồ đạc của ông, bao gồm mấy món đồ liên quan đến tôn giáo ông đặt ở khắp nhà. Một bức tượng Đức Mẹ Mary đồng trinh ông được một thành viên trong giáo đoàn tặng, một thiên sứ trang trí ông mua làm quà lưu niệm sau chuyến đi công tác ở nước ngoài… Vô số những vật dụng mà ông giữ khi còn sống ở đây bị mẹ tôi dọn dẹp sạch sẽ. Giờ đây căn nhà này không khác gì một cái lồng sắt vô hồn chứa đựng hai mạng người, là một nơi để ăn, để ngủ và để thở.
Giống với mẹ, tôi không tôn thờ vị thánh nào. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng trên đời này tồn tại một đấng toàn năng. Kể cả khi tôi đã từng là một tín đồ, thì việc tôi đang có ý định tự sát sẽ là bằng chứng để tôi rũ bỏ đức tin trong mình. Tự sát được xem là trọng tội trong mọi tôn giáo chứ không riêng Công giáo. Theo như tôi biết, hành động ấy được xem là một vết nhơ không thể xóa bỏ trong linh hồn người đó khi chuyển kiếp. Chẳng hạn, một trong những giáo lý cơ bản của Cơ đốc giáo, cuộc sống chính là một món quà thiêng liêng mà Chúa đã ban cho ta, và hành vi tự tước đoạt ân huệ ấy không khác gì phỉ nhổ lên Chúa. Phần lớn người Nhật không theo bất kỳ tôn giáo nào được cho là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ tử tử cao trên cả nước so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Nếu tôi mà có chút ít đức tin, suy nghĩ tự tử biết đâu sẽ khiến tôi sợ hãi và tủi hổ. Nếu tôi mà tin rằng mình mang ơn đấng tạo hóa giống như ba, tôi sẽ không nghĩ đến lựa chọn này.
Mang ơn đấng tạo hóa à… Hừ, mình nghe cái này ở đâu rồi nhỉ?
Dòng suy nghĩ ấy vô tình khiến tôi nhớ đến một trong những lời đáp trả của mẹ mỗi khi bà thấy tôi quá cứng đầu, hay vô ơn, bướng bỉnh.
“Nếu mẹ không sinh ra còn thì bây giờ con chả ngồi đây đâu. Sao không biết ơn người mẹ này một chút thôi hả?”
Lý lẽ đó làm tôi thấy nực cười, vì tôi nào muốn mình được sinh ra, rốt cuộc tôi chẳng có cửa để cãi lại mẹ. Nếu được tự do, tôi ước khi mình chết đi, tôi sẽ chết theo ý mình mà không phải của ai khác.
Trong giờ nghỉ giải lao ở lò luyện thi, tôi cầm điện thoại và nhắn tin trên nhóm với Aoi và Ryo. Bọn tôi đã bàn luận về trải nghiệm vô thực ngày hôm kia.
Aoi nhắn, “Vậy là ma có thật sao, giờ nghĩ lại tớ thấy hơi rùng mình.”
Xem ra nỗi sợ thực thể siêu nhiên của Aoi đã trầm trọng hơn. Tôi lại lấy làm lạ vì tương tác hồn nhiên giữa cô ấy và Ayane khi đó. Cơ mà, cứ nghĩ về việc các hồn ma ác ý khác có thể đang lẩn khuất đâu đó trong một hành lang u tối nào đấy hẳn đang khiến cô ấy ngày một căng thẳng.
Trái lại, Ryo lại thảnh thơi đến lạ. “Tớ á? Có gì đâu mà sợ. Tớ còn biết ơn người đấy là đằng khác. Giờ thì tớ không sợ chết nữa rồi,” cậu ta nhắn vậy. “Còn cậu thì sao, Tomoya?”
“Không rõ lắm,” tôi hồi âm. “Giá mà có nhiều thời gian hơn để nói chuyện với cô ấy. Tớ muốn biết sau khi chết sẽ trải qua những gì, à mà lần trước cô ấy cũng nói bản thân không biết gì nhiều thì phải.”
Trường hợp của Ayane, chúng tôi cho rằng cô ấy chưa được siêu thoát, trở thành một hồn ma lang thang ở phi trường kia kể từ lúc chết. Cô ấy còn bảo chưa hề gặp người nào khác ngoài mình, hẳn những người kia đã hóa kiếp còn cô thì không. Giả sử có thế giới bên kia tồn tại hoàn toàn biệt lập với nơi đây, thì có vẻ cô ấy đang lững lờ ở đâu đó giữa hai thế giới, và chỉ có thể xuất hiện trước mặt chúng tôi khi hai nơi giao thoa.
Sau khi nói chuyện về Summer Ghost được một lúc, ba đứa lại chuyển sang các chủ đề vô thưởng vô phạt khác. Aoi đã dành nguyên cả kỳ nghỉ hè chui rúc trong phòng để chơi điện tử. Ryo thì đi bệnh viện nhiều như đi chợ. Ngày nào cậu ấy cũng phải uống đủ thứ thuốc thang. Nom cực khổ quá.
“Cậu thì sao, Tomoya-kun? Gần đây cậu hay làm gì?” Aoi hỏi tôi.
“Tớ học ở lò luyện thi hết ngày này sang ngày khác, để chuẩn bị cho kỳ thi đầu vào.”
Vào giai đoạn này trong năm, trong khi các trường đại học đang cho sinh viên nghỉ hè thì nhiều lò luyện thi lại mở những khóa ôn luyện nâng cao ngắn hạn cho học sinh cuối cấp như tôi. Họ hoạt động từ sáng cho đến tận tối mịt, và học cho tới khi nổ đom đóm mắt do nhìn bài vở quá nhiều.
“Để chi thế?” Ryo thắc mắc. “Đằng nào ông cũng hóa vàng thôi mà, đúng không? Mắc mớ gì phải làm khổ bản thân vậy chứ?”
“Đúng rồi đấy!” Aoi đồng tình. “Nếu tớ mà là cậu thì quăng hết đống bài vở này sang một bên đi. Sang bên kia cũng có ích lợi đâu!”
Họ nói đúng. Nếu tôi sắp sửa tự vẫn thì chuyện ôn tập cho kỳ thi đầu vào vốn không có nghĩa lý gì.
“Thời gian đã không còn nhiều rồi, đừng tối ngày cắm mặt vào bài vở nữa,” Ryo nhắn. “Dành chút thời gian đó làm những việc mình thực sự yêu thích đi.”
Tôi thừa nhận “Tranh luận với người như cậu đúng là khó thật.”
Phần nào trong tôi vẫn nghĩ tốt hơn hết nên tiếp diễn cuộc sống thường ngày cho tới thời khắc tôi quyết định kết thúc tất cả. Giờ mà buông bỏ và ăn chơi, thể nào mẹ tôi cũng nhận ra, dần dà về sau mọi việc sẽ trở nên khó khăn hơn. Cho nên, kế hoạch hiện thời là cứ đóng vai làm con ngoan trò giỏi tới khi tôi đã chuẩn bị chu tất mọi thứ và sẵn sàng để sang bên kia.
Ở diễn đàn kín nơi ba đứa bọn tôi lần đầu tiếp xúc, thi thoảng hiện lên những chủ đề nhằm tuyển mộ người tham gia cho sự kiện tự sát tập thể. Song chúng tôi chưa từng thảo luận về vấn đề này. Hiện tại, chúng tôi đang phần ai nấy lên kế hoạch để thực hiện việc này, tự quyết thời điểm và cách thức.
“Thế hai người tính bao giờ thì tự sát?” Tôi nhắn vào nhóm. “Tớ dự định vào cuối năm nay. Không gần với các cậu quá là được.”
“Khoan đã, sao tụi mình không làm cùng lúc đi?” Ryo băn khoăn.
“Nếu tụi mình làm cách cách ra thì chí ít còn đi viếng đám tang người kia được. Tớ thấy thế hay hơn đấy,” tôi giải đáp.
“Ê, bộ cậu là kiểu người cầu toàn à, Tomoya-kun? Làm gì cũng phải lên kế hoạch trước cả tháng, chuẩn bị tỉ mỉ từng li từng tí.” Aoi hỏi tôi.
“Tớ nghĩ không phải đâu.”
“Tớ chỉ muốn ngắm thời tiết buổi sáng ngày hôm đó rồi hẵng quyết định. Tụi mình chỉ chết được một lần thôi phỏng? Vậy thì lựa ngày đẹp trời chút có sao đâu, vì trường hợp của tớ không phải là bất khả kháng. Tớ muốn trước khi nhắm mắt sẽ được nhìn thấy bầu trời trong xanh bao la.”
Vừa dứt lời, giáo viên lò luyện thi tôi đã bước vào lớp, và mọi người khi nãy đang trò chuyện rôm rả đều lặng lẽ quay lại chỗ ngồi. Tôi bỏ điện thoại vào trong cặp. Sau khi giáo viên giao bài tập xong, chỉ còn mỗi tiếng bút chì ghi chép xoẹt xoẹt bao trùm lấy căn phòng suốt cả tiếng đồng hồ.
Vì đang là hạ chí, dù lò luyện thi đã tan học nhưng ngoài trời vẫn còn sáng trưng. Tôi nhận được tin nhắn từ mẹ dặn rằng tối nay bà sẽ về nhà rất trễ. Tôi đắn đo một lúc, xem liệu mình nên về nhà luôn và tận hưởng khoảng thời gian quý giá được ở một mình hay không, song rốt cuộc, tôi lại chọn mò tới phi trường nọ. Tôi tạt qua cửa hàng kim khí mua ít túi pháo hoa và leo lên xe buýt, ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ khi hình ảnh những mái nhà phố thị dần rời xa tầm mắt, được thay thế bằng vùng ngoại ô ngổn ngang càng lúc càng trở nên hoang vắng.
Tôi muốn được nói chuyện với Summer Ghost lần nữa. Sự thôi thúc nhất thời này là do tin nhắn của mẹ mà ra, nên tôi chẳng buồn hỏi Aoi và Ryo liệu hai người bọn họ có đi cùng được không. Tôi còn không biết một người có thể gặp Summer Ghost được hai lần không. Đối với những người đã giáp mặt cô ấy như chúng tôi, sự xuất hiện hôm ấy biết đâu chỉ là một hiện tượng dị thường nhất thời. Sự hiếu kỳ muốn tìm cho ra lời giải về hiện tượng này, đây là một trong những lý do thúc giục tôi quay trở lại.
Tới rìa tỉnh, tôi xuống xe và đi bộ như lần trước. Tôi lê bước trên con đường đất vẫn còn nóng hổi, nhưng không lâu sau tôi đã leo lên đỉnh đồi, hướng mắt nhìn xuống phi trường khổng lồ được bao quanh bởi hàng rào sắt đã han gỉ kia. Tôi lẻn vào phi trường thông qua lỗ hổng đã biết và đi xuyên qua bãi cỏ cao để đến được đoạn đường băng nứt nẻ. Tôi đặt ba lô xuống và nhanh tay bóc gói pháo bông vừa mua khi nãy.
Lần trước cô ấy đã xuất hiện sau khi chúng tôi đốt gần hết chỗ pháo đã mua và còn duy nhất một bịch pháo bông kiểu Nhật. Bởi lẽ đó, tôi tự hỏi phải chăng chỉ mỗi loại pháo ấy mới có thể gọi hồn Ayane, nên trước hết tôi sẽ đốt pháo phụt trước để kiểm chứng giả thuyết này. Cái loại mà có luồng phụt hình hoa bìm bìm, bắn ra tia lửa đủ màu lam, lục, đỏ suốt chừng ba mươi giây rồi tắt hẳn. Khi ánh mặt trời mờ dần và hoàng hôn bắt đầu buông xuống, mảng màu sắc của que pháo càng thêm rực rỡ, tưởng chừng phá tan màn đêm tối đang lần mò đến.
Nhưng Summer Ghost đã không xuất hiện.
Kế đến tôi lấy que pháo bông kiểu Nhật ra và quẹt bật lửa để đốt cháy nó. Vài giây sau, thuốc súng bắt lửa, và phản ứng hóa học gồm kali sunfat, kali cacbonat cùng axit sunfuric đã tạo ra một đốm nhớt, nhanh chóng phồng lên thành một giọt dung nóng chảy. Và chính bên trong viên bi đỏ rực này, tựa hồ tỏa ra ánh sáng mong manh của sự sống, phần không khí bất ổn định dần kết thành vô số các bong bóng li ti. Khi những bong bóng này bục ra, chúng bắn ra các giọt sương trắng nhỏ xíu và chính những hạt vật chất nóng chảy bé tí đã mang đến tên gọi “pháo bông”.
Những tia sáng này để lại vệt s/p>