Chương 1: Hoa Kỳ Chống Lại Thánh Thương Hội
Độ dài 3,748 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-27 20:11:27
Thánh Thương Hội đã biến mất cùng lúc khi Berlin thất thủ. Thực tế thì báo cáo này không hẳn là sai. Thủ lĩnh Reinhard cùng các tiểu đoàn trưởng đã biến mất vào chiều không gian khác bằng cách biến sự sụp đổ của Berlin thành một nghi lễ, và chỉ trở lại sau hơn nửa thế kỷ để thực hiện Dies Irae[note21523]. Mercurius cũng tới một nơi nào đó ở phương Đông để chuẩn bị cho mình một người đại diện. Người đó sẽ thay thế ông trong nghi lễ mới sẽ diễn ra vào cái ngày định mệnh ấy của thế kỉ 21. Những thành viên còn lại sẽ kiên nhẫn chờ đợi Ngày Phán xét dưới sự lãnh đạo tạm thời của Valeria Trifa, ghế số III của Bàn Tròn Đen, Thánh Thuơng Hội. Đơn giản chỉ là nhìn thời gian trôi. Tất cả những gì có thể khiến họ cảm thấy bớt nhàm chán trong khoảng thời gian đó là thực hiện các mệnh lệnh từ cấp trên và nhận lấy phần thưởng tương xứng.
Gieo gì gặt nấy. Và tùy theo công trạng mà có được phần thưởng xứng đáng.
Tạo ra sự sống rồi kéo dài đến vô tận. Ấy là bất tử, món quà từ Hoàng Kim Luyện Thành[note28723]. Giết chóc là một phần của nghi thức cho phép linh hồn kẻ bị giết thấm nhuần vào cơ thể của người ta yêu dấu, hoặc là cho chính bản thân mình nếu muốn. Vì thế, với những khao khát riêng biệt, những kẻ ấy mong mỏi chờ đợi Ngày Phán xét diễn ra.
Sự kiện đêm nay diễn ra vào năm 1962. Và vẫn còn tận vài chục năm nữa cho đến thời điểm ấy.
❆❆❆
Những ngôi nhà trắng với thảm cỏ xanh. Một khu phố nơi mà những căn hộ gọn đẹp nằm san sát. Ấy vậy mà cô thiếu nữ vẫn lúng túng trong việc tìm ra căn nhà cần tìm. Và giờ đang là nửa đêm, công việc tìm kiếm cũng vì thế mà trở nên khó khăn hơn. Cứ mỗi lần cúi nhìn tờ giấy ghi địa chỉ, mái tóc đuôi ngựa vàng óng của cô lại khẽ đung đưa. Cô mặc một chiếc áo cardigan[note21524] cùng với váy liền kẻ sọc ở bên trong làm nổi bật lên vẻ đẹp trẻ trung của mình. Trời tuy không mưa nhưng thiếu nữ vẫn mang theo ô. Trông khá là kỳ dị.
Cuối cùng, cô đã tìm được ngôi nhà cần tìm và bấm chuông. Sau một thoáng chờ đợi, một thằng bé chạy ra mở cửa.
“Ưm… ư, xin chào. Chị là ai vậy ạ?”
Thiếu nữ mỉm cười với đứa trẻ đang lúng túng trước mặt mình.
“À… Cha mẹ em có nhà không?”
“Có ạ.”
Cậu bé quay trở lại vào phòng khách. Đó là một khung cảnh rất yên bình, hẳn đây là một gia đình rất đầm ấm. Nhưng khi nhận ra một điều gì đó, bàn tay cô thiếu nữ đang cầm lấy chiếc ô bỗng siết chặt lại.
“Cha mẹ em bảo là chị cứ vào đi ạ.”
Cô bước vào theo lời mời của đứa trẻ.
“A, chúng ta có khách này.”
“Cứ tự nhiên như ở nhà nhé cô gái.”
Người cha hiếu khách vừa chào hỏi cô đang ngồi một cách thoải mái trên ghế. Còn người mẹ thì đang bận bịu với việc nhà. Khi nhìn thấy họ, cô thiếu nữ bắt đầu cảm thấy khó chịu.
“Sao vậy chị?”
Thiếu nữ vẫn đứng bất động sau câu hỏi đầy tò mò của đứa trẻ. Nhưng cô phải đáp lại nó.
“Em thật sự không thấy rằng cha mẹ mình có gì kỳ lạ sao?”
“Hừm… em cũng không biết nữa. Nhưng mà dạo này họ đã trở nên dễ chịu hơn mọi khi.”
“Ừ… dễ chịu…”
“Vâng ạ. Cha em đã từng vắng nhà suốt. Mà mỗi khi về đến nhà thì ông lại to tiếng với mẹ, nhưng giờ lúc nào cha cũng ở nhà nên ai cũng vui vẻ hết!”
À, ra là vậy. Đối với đứa trẻ này, người chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra thì cái bầu không khí gia đình nồng ấm này chỉ khiến nó thêm hạnh phúc mà thôi. Mùi hôi thối và tình huống quái dị này chẳng là gì khi so với niềm hạnh phúc mới mà nó nhận được. Thiếu nữ bất ngờ đánh nhẹ vào vị trí hành não của đứa trẻ khiến nó bất tỉnh tạm thời.
“Ô, sao vậy?”
“Nào, tới đây và ngồi xuống đi chứ.”
Hai người họ chẳng hề mảy may gì tới việc con của mình vừa bị đánh ngất. Mà cũng dễ hiểu thôi, khi mà đầu của người cha thì đã bị chẻ đôi, còn nội tạng của ngưởi mẹ thì đang xổ ra hết bên ngoài. Từ góc nhìn của một xác sống thì việc ngất đi chỉ là chuyện nhỏ nhặt. Cô thiếu nữ hướng chiếc ô đang cầm về phía trước mặt, tay cầm của nó bắt đầu phát sáng. Trong nháy mắt, chiếc ô lập tức bị đốt cháy và một lưỡi kiếm ẩn giấu bên trong xuất hiện.
Cô không dùng nó để cắt mấy cái xác, mà là sợi dây. Hai cái xác, thứ bị điểu khiển như những con rối bởi sợi dây ấy, đổ gục xuống tại chỗ. Tên của thanh kiếm này là Thrud Walkure[note21525], được mô phỏng theo vũ khí của những Trinh nữ chiến trận: Valkyrie[note21530], được rèn từ sét, là lưỡi kiếm của đế vương. Thứ thấm nhuần trong nó không phải là thù hận, mà là đức tin. Đó là Thánh khí của cô ấy.
“Phải làm sao đây… mấy cái trò bệnh hoạn này đúng là tởm quá đi mất.”
Tên của thiếu nữ đang lẩm bẩm đây là Beatrice Waltrud von Kircheisen, ghế số V của Bàn Tròn Đen, Thánh Thương Hội, còn được biết đến với bí danh Valkyrie, một siêu nhân loại khác. Cô nhận lệnh từ Thánh Bôi[note21526] đi “nhổ cỏ”. Cụ thể hơn là điều tra những kẻ để mắt đến hoặc đang có ý định phá hoại Thánh Thương Hội, và xử lý chúng ngay khi cần thiết.
Beatrice đã rong ruổi khắp Hoa Kỳ và lần theo vô số đầu mối. Nhưng rồi cuối cùng chúng đều dẫn đến những cái chết tàn khốc như thế này. Ngày hôm kia ở California, các đối tượng được tìm thấy trong tình trạng không đầu, đó là một vết cắt rất ngọt. Còn tối nay ở Washington thì lại là xác sống. Beatrice lắc đầu cố gắng quên đi các tình tiết giống nhau của những vụ án này. Tại thời điểm này, cô chỉ muốn coi đây như một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi, khoảnh khắc mà cô nhận ra tất cả đều liên kết với nhau, chắc chắn Beatrice sẽ nổi điên. Thế nên, cô ấy đang cố hết sức để giữ bình tĩnh.
Trong quá trình làm nhiệm vụ của mình, Beatrice luôn được đón chờ bởi một thứ đặc biệt ở mỗi nơi cô đặt chân đến. Là lời nhắn của kẻ nào đó trong mỗi phòng ngủ…
Hagazussa!
Từ này được viết bằng máu trên tường phòng ngủ, nó bốc ra thứ mùi hôi thối khủng khiếp. Hagazussa là một từ tiếng Đức cổ mang nghĩa ả đàn bà vượt rào. Một con đàn bà dâm đãng tự thỏa mãn chính mình bằng một cây cột. Một kẻ vượt rào chính là bước qua ranh giới của con người và ma thuật. Nó được cho là nguồn gốc của từ tiếng Đức khác mang nghĩa phù thủy: hexe. Những vụ giết người hàng loạt này dường như là để nhạo báng một thành viên của Bàn Tròn Đen. Hơn nữa, cũng bởi cái từ được viết lên tường kia nên việc kẻ này đang ám chỉ ai rất là dễ đoán. Giờ thì đã quá rõ tên sát nhân đang muốn ai phải điều tra rồi.
Mà, vì giờ Mercurius đã biến mất, nên chỉ còn duy nhất một thành viên của Bàn Tròn Đen biết cách phân tích loại ma thuật khiến xác chết có thể nhảy múa thế này. Thánh Bôi chắc chắn sẽ đưa cô ta vào điều tra khi ông ta nghe về báo cáo này. Có lẽ không còn cách nào khác để tránh phải liên lạc với Rusalka Schwägelin cả. Khi Beatrice còn đang băn khoăn chẳng biết phải xử lý căn nhà này ra sao, thì cô đã có thể tưởng tượng ra cảnh bị quay như chong chóng bởi nhỏ phù thủy nhí nhảnh đó. Cô thở một hơi dài thườn thượt.
❆❆❆
“Ạch xì!”
Rusalka hắt hơi.
Hiện tại, cô đang ở một nơi rất xa Hoa Kỳ. Theo một cách nào đó thì việc này đã cho thấy cô ấy có bằng chứng ngoại phạm. Dĩ nhiên, đó chỉ là khi chúng ta quên đi cái sự thật rằng ma thuật chả cần phải tuân theo định luật vật lý hay khoảng cách địa lý…
Rusalka cũng đã nhận một mệnh lệnh từ Thánh Bôi, và cô đã đến đây để hoàn thành nó. Bộ quân phục sĩ quan Lực lượng Cận vệ lần đầu mặc lại sau một thời gian dài vẫn vừa như xưa. Mà cũng chẳng bất ngờ lắm, khi mà cơ thể bất tử của cô vốn chẳng có chút thay đổi nào. Rusalka thoải mái bước đi trong một nơi u ám. Chắc hẳn là chưa từng có ai bước đi trên hành lang này khi đang mặc quân phục Đức Quốc Xã như thể mình là chủ của chỗ này như cô ấy cả.
Đây là một nhà tù ở Ramla, Israel. Ở cái nơi mà sự khinh bỉ dành cho Đức Quốc Xã vẫn còn đang ngút trời này, Rusalka tới để gặp một người đồng hương sắp chết. Cô bình thản bước tới phòng giam của người đó.
Ông ta bị nhốt đằng sau nhiều lớp song sắt với một ổ khóa chắc chắn, nhưng đối với cô, chúng thật mỏng manh chẳng khác gì một tờ giấy. Và cô thực sự đã phá hủy nó, Rusalka vượt qua những song sắt đã bị nung chảy và bước vào trong buồng giam. Ngoại hình cô trông vẫn y hệt như mười năm trước, nhưng người tù nhân lại chẳng có lấy một chút ngạc nhiên. Thay vào đó, ông ta chỉ liếc nhìn cô ấy bằng đôi mắt vô hồn của mình.
“Chào! Lâu quá không gặp! Ý, ông mới giảm cân hở?”
Rusalka cất tiếng chào người đàn ông mà cô rõ ràng là có quen biết. Thế nhưng ông ta không trả lời.
“Tui ở đây là để giải cứu ông đó. Giờ ông mà đi thì cũng chả có ai cản đâu. Toàn bộ đám lính canh giờ nằm gọn trong mấy cái bóng của tui rồi, và cửa ra thì rộng mởởở~ luôn á.”
“...”
“Ông mà còn nấn ná ở đây là bay đầu chắc luôn! Ông không hiểu hả? Tụi lính đã chuẩn bị sẵn một sợi thừng bự thiệt bự dành cho ông luôn đó. Ông nghĩ coi, liệu tụi lính giờ có đang trôi nổi trong ảnh địa[note21529] không nếu chúng nó muốn treo cổ ai đó?”
“…”
“Thôi mà… Nói gì đi chớ. Bộ ông hổng thấy cô đơn hử?”
“…”
Dù cho Rusalka có nói gì đi chăng nữa thì người kia vẫn im lặng, không hé nửa lời.
“Mới đây thôi ông còn khai hết mọi thứ về tụi này mà giờ lại câm như hến vậy. Thế này thì chẳng phải là tiện cho ông quá rồi à?”
Ông ta đã từng là Trung Tá của Lực lượng Cận vệ Đức Quốc Xã. Sau Thế Chiến thứ hai, ông ta đã xoay xở mà chạy được tới Nam Mỹ và lẩn trốn với một danh tính mới. Tuy nhiên, ông lại bị bắt bởi tổ chức tình báo của Israel mang tên Mossad và bị đưa tới Israel.
Tù nhân này không phải là thành viên của Bàn Tròn Đen, nhưng ông ta là một thành viên của Đức Quốc Xã và có mối liên hệ khá mật thiết với Thánh Thương Hội.
“Ông biết không, Spinne kể mọi chuyện cho tui nghe mà trông cay đắng cực, rằng ông đã đáp lại ơn nghĩa của tụi này sâu đậm ra sao. Còn chưa kể… ông không chỉ để cho mình bị tóm, mà thậm chí đi mách lẻo cho chúng nó về tụi này… Rốt cuộc thì ông muốn cái gì đây hả?”
Người đã hỗ trợ cho người tù nhân này trốn tới Nam Mỹ chính là Röt Spinne, ghế số X của Bàn Tròn Đen, Thánh Thương Hội. Nhiệm vụ của anh ta chính là hỗ trợ Thánh Thương Hội, và trong đó, hỗ trợ đào tẩu cho lũ tội phạm chiến tranh cũng là một biện pháp đánh lạc hướng.
Thế rồi cái sự đánh lạc hướng ấy lại bị bắt rồi còn khai ra hết về sự tồn tại của Thánh Thương Hội đang ẩn giấu. Một sự cố khá là ngoài ý muốn. Vì thế mà, nhiều người, như Rusalka chẳng hạn, đã được giao nhiệm vụ “dọn cỏ”.
Dù Rusalka đã chuyển sang tông giọng thẩm vấn, người tù nhân vẫn không hề có vẻ gì là sẽ trả lời. Dù có là một đề nghị cứu rỗi hay những lời đe dọa từ một kẻ đã nằm ngoài tri thức của nhân loại đi nữa, dường như chẳng gì có thể lay động được ông ta. Vậy, chẳng phải người đàn ông trước mặt cô ấy giờ khác nào một cái vỏ rỗng? Thế thì chẳng thể moi được thông tin, cảm xúc hay bất cứ thứ gì khác ra từ ông ta nữa rồi. Giờ mà làm mấy chuyện cô định làm âu cũng chỉ là phí hoài sức lực mà thôi.
Rusalka đảm đương nhiệm vụ tra tấn gã tù nhân đã bán đứng Thánh Thương Hội. Để điều tra xem ông ta đã tiết lộ bao nhiêu về bọn họ, và cũng như để xem thử ngay từ đầu ông ta đã biết được những gì.
Nhưng trên thực tế thì, chuyện đó chả quan trọng. Phần quan trọng chính là sự trừng phạt dành cho hành động phản bội đó, bắt ông ta phải hứng chịu đau đớn và cầu xin được chết. Nhưng mà tra tấn một cái vỏ rỗng thì đúng là việc làm vô nghĩa. Thứ cần phải kéo ra khỏi người hắn đã vụ nát hết cả rồi. Mà dĩ nhiên, nếu gã tù nhân này không phải là một lão già gầy còm, mà thay vào đó là một cậu bé dễ thương, thì việc tra tấn vẫn đáng làm lắm.
Bỗng, Rusalka chợt nhớ đến một người chắc chắn có thể làm lay động gã tù nhân.
“Tiếc thật… thế mà Chúa Tể Heydrick đánh giá ông cao lắm cơ.”
Chân mày của người tù nhân chợt rung. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, trái tim ông khẽ lay động. Người đàn ông này quen biết với Reinhard Heydrich lâu hơn rất nhiều so với bất kỳ thành viên nào của Bàn Tròn Đen, và còn trước cả Mercurius.
Rusalka lại tiếp lời…
“Dù ông không phải là một phần của Bàn Tròn Đen, nhưng nhờ khả năng quản lý tài chính và hậu cần tuyệt vời đó mà đã công việc của mọi người đã dễ dàng dàng hơn. Ai ai cũng đều rất biết ơn ông đó, có biết hông hả? Đến cả Chúa Tể Heydrich cũng yêu quý ông và sự tận tâm của ông đó.”
“Và giờ thì Ngài đã khai mở chân lý của mình đến toàn bộ tạo hóa rồi nhỉ?”
Đó chính là những thanh âm đầu tiên được thốt ra từ miệng của người tù nhân.
“Ta đã muốn tiếp tục phò trợ Ngài, Ngài quả là một người đàn ông tuyệt vời và quyến rũ, một Aryan[note21528] lý tưởng. Chứ nào phải là một vị thần toàn tri. Ta chỉ muốn được ở bên cạnh một người đàn ông hoàn hảo mà thôi.”
“Ồ, đúng là một khao khát không màng đến bản thân nhỉ? Ôi, tôi yêu Chúa lắm! Ôi, tôi muốn được ở bên Ngài! – Đừng có để mấy người theo đạo nghe được đó, ông sẽ làm họ nhảy dựng lên mất.”
“Con người ta tôn thờ ai hay cái gì thì cũng chẳng quan trọng. Có thể là một con người, một cái cây hay thậm chí là một cục đá. Ngài đã trở thành một thứ gì đó hoàn toàn khác vào ngày đó… Cái ngày giáng thế mà Ngài đã đưa cái lũ các người theo… Ta đã sẵn sàng dốc toàn lực để ngăn Ngài trở về cái chốn đáng bị nguyền rủa ấy, kể cả có kháng lại hết mọi mệnh lệnh. Nhưng, hi vọng vẫn còn đó… Một ngày nào đó Ngài sẽ trở về với nhân loại của Ngài, và ta đã bám víu vào cái hi vọng đó suốt nửa đời còn lại.”
“À, tui hiểu rồi…”
Quả là thuần khiết. Rusalka cũng thấy cảm thông với ông ta một chút. Người đàn ông này đã tôn thờ Heydrich từ rất lâu trước khi Ngài gặp người đàn ông tự xưng là Karl Krafft, từ cái thời mà Ngài vẫn còn bị dày vò bởi sự thèm khát chiếm hữu. Đó là lý do tại sao ông ta lại trở nên tách biệt với Bàn Tròn Đen như vậy, dù vẫn phục vụ Ngài. Ông ta luôn hi vọng rằng một ngày nào đó Ngài sẽ một lần nữa trở lại là con người.
Sự ngây thơ ấy chợt khiến người ta nhớ đến những Valkyrie[note21535]. Mặc dù đây là một người đàn ông trưởng thành…
Mà đằng nào cũng vậy, chuyện này đã thay đổi tất cả.
“Có vẻ như ông làm vậy không phải vì chúng hứa sẽ tha mạng cho ông, hay là vì căm ghét tụi này…”
Dù chẳng có một chút trung thành nào dành cho Thánh Thương Hội, nhưng ông ta lại tuyệt đối không hề phản bội Đức Chúa Heydrich. Là một kẻ đâm sau lưng, nhưng đồng thời cũng chẳng phải thế. Đó mới chính là con người của ông ta.
“Ngươi quên rồi sao? Ta là người quản lý tài chính và hậu cần. Ta tự hỏi giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra khi mà mọi thứ về các ngươi đã bị tiết lộ. Phải rồi nhỉ. Các ngươi đã gây thù với biết bao nhiêu kẻ bởi những tang thương và hủy diệt tùy tiện ấy. Dù chiến tranh đã kết thúc được khoảng 20 năm thì như thế vẫn là chưa đủ. Tất cả những sợ hãi, căm thù, khinh bỉ và đố kị vẫn còn hằn sâu trong trái tim con người giờ đã được thổi bùng lên, bởi lời khai của ta.”
Thu thập linh hồn cho đến khi chúng ta bắt đầu Ngày Phán xét.
Gã tù nhân này đã tạo ra một cơ hội hoàn hảo để thực hiện điều đó. Trong thời điểm chiến tranh lạnh đang diễn ra, ông ta đã tạo ra những kẻ thù sẵn sàng nhọc công mà tự tìm đến chúng ta. Thật là tốt bụng làm sao.
Mà - tiện - thể…
Rusalka mở rộng một nụ cười.
“Nếu mà, lỡ như, cái cơ hội một phần một triệu, không, là một phần tỉ cơ… Nếu tụi tui chết… Rồi những thành viên của Bàn Tròn Đen đang ở đây cũng chết hết, kế hoạch của Chúa Tể Heydrich sẽ sụp đổ và Ngài lại tiếp tục ở lại nơi đó. Liệu ông có thích như như vậy không? Mà, đời nào chuyện đó xảy ra được…”
“Ha, ta biết chắc chắn là thế mà. Làm ơn hãy đánh bại hết kẻ thù của các ngươi và chào đón Ngài trở về đây. Mà… Nếu là Ngài, dù chẳng có lũ các ngươi thì Ngài vẫn sẽ trở về vào một ngày nào đó mà thôi.”
Nói cách khác, mặc cho quả bom mình vừa ném vào thế giới này có phát nổ ra sao, thì cũng đều có lợi đối với ông ta. Lòng trung thành với Chúa Tể Heydrich và sự căm ghét dành cho Bàn Tròn Đen. Ông ta đã thể hiện tất cả những điều đó bằng cơ hội này và cũng xác định rằng mình đã đặt một chân vào ô thất bại. Một canh bạc năm mươi-năm mươi.
Rusalka đã đạt được mục đích. Tra tấn giờ chẳng còn ý nghĩa gì nữa, tốt nhất là cứ để mặc cho ông ta chết trong vài ngày tới.
Rusalka quay lưng lại nhưng bỗng nhớ ra một chuyện mà mình quên hỏi.
“Tui đã muốn hỏi về việc này kể từ lúc chiến tranh kết thúc rồi. Chuyện gì đã xảy ra với tất cả những tài liệu và thánh vật từ cái thời ông còn hoạt động trong Ahnenerbe[note21531] thế?”
“Hầu hết trong số đó đều đã được gửi tới lâu đài của bọn ngươi.”
“Ừ, nhưng số còn lại thì biến mất hết.”
Hầu hết những thánh vật được gọi là Ahnenerbe[note21533] của Thánh Thương Hội đã được đưa ra khỏi Cục quản lý Ahnenerbe của Đức. Rusalka từng có thời gian hoạt động tại đó.
“Ta để sót gì sao?”
Mắt của người tù nhân mở căng. Khoảnh khắc ấy, ông ta đã chẳng còn là tù nhân nữa. Mà là một sĩ quan vừa bị khiển trách bởi sơ suất của mình.
“À mà thôi, kệ đi. Bọn tui thực ra cũng biết hầu hết chúng biến đi đâu rồi. Với lại một vài cái thì chắc chỉ bị vứt đi thôi. Tạm biệt, ngài Trung Tá[note21527]. Rất vui khi được gặp lại ông!”
Rusalka rời khỏi phòng giam, nhưng người tù nhân vẫn im lặng. Ông ta nở một nụ cười khinh miệt.
❆❆❆
Dù gặp phải một chút khó khăn, nhưng vài ngày sau người tù nhân đó đã được xử tử theo đúng kế hoạch. Trung Tá Lực lượng cận vệ Đức Quốc Xã: Adolf Eichmann, người đàn ông đã quen biết Reinhard Heydrich lâu hơn bất kỳ ai trong Thánh Thương Hội, kẻ đáng lẽ phải là người bạn đáng tin tưởng nhất của Ngài, đã bị treo cổ vào năm 1962.
Ông ta đã nói gì khi ở trong tù? Những lời cuối cùng của ông ta là gì? Những bản ghi chép được tìm thấy đều mâu thuẫn với nhau và tới tận ngày nay thì đó vẫn còn là một bí ẩn.