Chương 1-1. Onomichi
Độ dài 2,117 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-28 08:30:07
“Tôi đến Onomichi năm năm trước. Đó là vào một ngày cuối tuần giữa tháng Năm, nhưng thời tiết thì cứ như đã vào hè.” Nakai bắt đầu.
Như tôi đã nhắc, Nakai vốn là sinh viên đã tốt nghiệp khi anh ta tham gia Trường luyện nói Tiếng Anh. Kể cả khi tôi rời khỏi Kyoto và mất liên lạc với những người còn lại, anh ta là người duy nhất tôi vẫn còn giữ kết nối. Tôi thậm chí còn đến căn hộ của anh ta tại Suidobashi để ăn tối và được thưởng thức tài nghệ nấu ăn của vợ anh.
“Lý do tôi đã đi thật xa tới đó nhằm khiến vợ tôi quay trở về. Cô ấy... đã thay đổi.”
Nakai tiếp tục kể.
Khi tôi quay về nhà sau một ngày làm việc, đèn điện trong nhà đều tắt, còn hành lang dẫn tới phòng khách thì tối như hũ nút. Tôi nghĩ có chuyện chẳng lành đã xảy ra. Vợ tôi vừa nghỉ việc nên gần như thời gian của cô ấy đều ở nhà, và cô ấy luôn báo cho tôi mỗi khi cô rời khỏi nhà lúc trời tối. Nhưng tôi không tìm được bất kỳ thứ gì để lại lời nhắn trong phòng khách.
Tôi đã cố gọi cho cô ấy, nhưng điện thoại cô ấy chỉ tiếp tục rung hết lần này đến lần khác. Nghĩ đến chuyện đó khiến tôi rùng mình, tôi cứ đợi cho đến lúc cuối cùng, có một ai đó nhấc máy.
“Xin chào?” Một giọng nói nhỏ phát ra.
Khoảnh khắc nghe thấy giọng nói đó, lòng tôi có chút nhẹ nhõm, nhưng tôi phải sửng sốt khi cô ấy bảo cô đang ở Onomichi. Cô thông báo tôi, bằng giọng nói rõ ràng đang cáu kỉnh, rằng cô đã rời Tokyo vào buổi chiều và hiện đang tìm nhà trọ tại Onomichi.
“Em sẽ ở đây một thời gian,” cô ấy nói.
Tôi quá bất ngờ. “Em làm gì ở Onomichi?” tôi gặng hỏi, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng. Áp chặt tai kề sát điện thoại, tôi lờ mờ nghe thấy tiếng nước chảy trong bồn rửa mặt.
Cơn giận dữ trỗi dậy trong lòng tôi. Tôi vẫn luôn hoàn thành đủ trách nhiệm cho cô ta với tư cách một người chồng. Sao cô ta có thể bỏ nhà ra đi mà không một lời giải thích? Và tôi nên nói với bố mẹ vợ như thế nào nhỡ họ gọi đến?
Khi tôi xả hết những suy nghĩ đó vào cô ta, cô chỉ thở dài.
“Trách nhiệm? Ai quan tâm chứ?”
Nói xong cô ta cúp máy.
Tôi đứng tần ngần trong một lúc, nhưng một phần trong tôi mách bảo. Tôi đã biết. Thành thực, tôi bắt đạt cảm thấy thái đô của cô ta có chút gì đó không ổn lúc giữa tháng Tư.
Tôi không thể giải thích ngọn nguồn, nhưng đôi khi tôi đã nhìn ra sự lạnh lùng thoáng trên mặt cô ta. Có vẻ như cô ta trông không ổn lắm, và nếu tôi cố gắng hỏi cô điều gì, cô sẽ chỉ đưa ra những câu trả lời mơ hồ. Nếu tôi để yên cô ta một mình, cô ta đột nhiên quay ngoắt về như cũ. Lần nào tôi hỏi cô ta liệu tôi đã nói gì không phải phép, cô ta chỉ biết nhìn tôi bối rối. Tôi không thể nói là cô ta thật sự không quan tâm đến thế sự, hay cô ta chỉ trêu đùa thôi.
Nhưng vẫn có gì đó cực kỳ sai với vẻ lạnh lèo trên khuôn mặt cô ta. Trong thoáng chốc, cảm giác như có một con người hoàn toàn khác vừa ngồi tại đây. Tôi hỏi cô ấy có ổn không, cô ta vẫn khăng khăng là mình ổn. Nhưng tôi tin rằng có một lý do gì đó khiến cô ta trưng ra biểu cảm như vậy.
“Nếu có điều gì khiến em phiền muộn, sao không nói với anh?”
Vợ tôi trông có vẻ đau khổ khi tôi hỏi như vậy.
“Nếu em cảm thấy có gì đó lạ, có lẽ là do chính bản thân em đấy?”
“Không phải là em!”
“Tại sao em lại chắc chắn điều đó?”
Cô ta chống chế đó là vấn đề của tôi, nhưng tôi vặn rằng đó mới là vấn để của cô ta. Chúng tôi càng cãi nhau nhiều bao nhiêu, thì cô ta chui sâu vào trong vỏ ốc của mình bấy nhiêu. Tôi biết chắc chắn phải có vấn đề, nhưng tôi không thể hiểu nó là gì. Sự khó chịu bức bối trong lòng tôi không có lối thoát.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn, cho tới khi vợ tôi bỏ nhà.
Ban đầu tôi đã giận dữ. Thích thì làm đi! Tôi nghĩ. Nhưng sau khi có chút thời gian để hạ hoả, tôi bắt đầu suy nghĩ lại về cách tôi đã hành xử. Suy nghĩ thấu đáo hơn, tôi nhận ra vợ tôi cũng có lý. Cớ sao tôi vội vàng nghi ngờ cô ấy như vậy? Sao tôi lại trút nỗi thất vọng lên người cô ấy?
Suốt hai tuần, tôi và cô ấy tiếp tục liên lạc bằng điện thoại, và tôi cảm nhận được hơi ấm quay trở về giọng nói của người vợ.
“Em đã có thể ngủ ngon kể từ khi đến đây,” cô kể với tôi. “Em thực sự nghĩ việc đến đây là điều đúng đắn cho hai chúng ta.”
“Có lẽ em nói đúng.”
“Anh cũng ráng nghỉ ngơi đủ vào. Dạo này anh cư xử cũng kỳ lắm. Em thật lòng gợi ý về việc đi chơi đâu đó thật xa.”
“Em mất bao xa để tới chỗ đó vậy?”
“...Em không biết. Em không muốn mọi thứ phải gấp gáp.”
Vợ tôi đang trú tại một ngôi nhà trên một ngọn đồi, giúp việc cho một cửa hàng bách hoa do một người phụ nữ cô ấy biết làm chủ. Hiển nhiên, căn phòng của cô ấy trên tầng hai có tầm nhìn về thằng phố Onomichi mà không bị cản trở, kể cả những hòn đảo ngoài biển nội địa Seto.
“Em gặp cô ta ở đâu?” Mỗi khi tôi hỏi vợ về người phụ nữ đó, vợ tôi luôn lập lờ. Chuyện đó làm tôi nghĩ ngợi. Tôi chưa bao giờ được nghe về việc vợ tôi có người quen tại Onomichi.
“Nếu anh lo lắng, sao anh không tự đến và chứng kiến đi?”
“...Em có ổn với chuyện đó sao?”
Onomichi là một thành phố thuộc tỉnh Hiroshima nằm trên bờ biển thuộc biển nội địa Seto.
Tôi rời khỏi cửa soát vé và đi bộ về quảng trường bên ngoài sân ga. Dọc theo những cần cẩu nước lấp ló trên các xưởng đóng tàu ở Mukaishima, và những con thuyền ngự trên sóng biển lấp lánh. Tôi sinh ra và lớn lên ở một thị trấn xa biển, vì vậy tôi cảm thấy như mình đã đi một chặng đường từ nhà rất xa.
Tôi ngắm nhìn biển một lúc lâu, trước khi băng qua đường ray xe lửa chuyến Sanyo và tiến về phía ngọn đồi.
Vợ tôi nghe nói là đang làm việc tại một cửa hàng bách hoá tên là Công ty Gió Biển. Trang chủ của cửa hàng trông cực kỳ thô sơ, có vẻ như nó chưa được cập nhật trong một thời gian dài. Tôi vẫn còn ngờ vực với danh xưng doanh nghiệp của cửa hàng đó, nhưng để đề phòng tôi in bản đồ địa chỉ và cầm theo.
Những con phố dốc ngoằn ngoèo như mê cung đã tràn ngập dư vị của mùa hạ.
Onomichi là một thành phố kỳ lạ. Nhìn từ bờ biển trông diện tích khá nhỏ, nhưng từ phía những ngọn đồi là những ngọn đồi nối tít tắp, những con đường lớn trải dài và chia thành những con đường nhỏ khác nhau. Càng đi vào sâu, bạn càng cảm thấy như bị lạc trong mê cung.
Giữa vô vàn những con hẻm nối dài sau những ngôi nhà, những bậc thang đá cỏ mọc um tùm và những vòi thoát nước cũ kỹ, chỉ có những tấm áp phích vận động bầu cử hạ viện là nổi bật một cách kỳ lạ.
“Thành phố này vốn vậy sao?” Tôi thầm tự hỏi.
Trái ngược khi tôi nới với vợ, tôi từng đến Onomichi một lần.
Đó là vào khoảng kỳ nghỉ hè thời còn cắp sách. Sau khi về quê tại Kyushu, tôi bắt chuyến tàu tại Onomichi để quay về trường đại học và dành nửa ngày để đi đây đi đó. Lễ Obon vừa kết thúc, bầu không khí ngột ngạt. Ánh nắng chói chang hắt xuống con đường dài lên đồi, và ngay cả gió biển thổi qua khiến cây cối ở Senkoji cũng khô héo. Thực tại lúc đó trông như một giấc mơ. Có điều, một thứ
không thực xảy ra trong ký ức của tôi về buổi chiều tháng Tám đó. Và kỳ lạ đến mức mặc dù khi tôi quay trở về Onomichi, không chút hoài niệm nào còn vấn vương trong tôi.
Tôi không chắc tấm bản đồ làm sơ sài quá không, hay tôi mù đường, nhưng tôi đã đi sai đường và đi lòng vòng. Sau khi cuốc bộ khoảng hai mươi phút, cuối cùng tôi cũng tìm được địa điểm đánh dấu trên bản đồ. Bên phải là lùm cây, bên trái là những ngôi nhà thẳng hàng như một chiếc cầu thang khổng lồ. Tôi cầu nguyện thần linh rằng tôi sẽ không phải tiếp tục leo thêm nữa khi đã đến điểm cuối hành trình.
Đột nhiên tôi gặp phải một người đàn ông lạ.
Anh ta từ trên đỉnh lao xuống dốc như điên cuồng. Sau khi suýt chút nữa va trúng tôi, anh ta giữ thăng bằng và điếng người, mồm há hốc vì sững sờ. Ngay cả trong tiết trời như thế này mà anh ta vẫn mặc bộ đồng phục vuông vắn của một concierge. Đôi mắt lồi của anh ta mở to, và khuôn mặt anh ta trơn bóng như thể bị hất nước. Khi tôi hơi cúi đầu và vượt ngang qua anh ta, anh ta quay người sang một bên và khẽ nói với tông giọng trầm, “Thứ lỗi.” Mùi trên người anh ta khá là khó chịu.
Sau khi chúng tôi đi ngang qua, tôi quay người thì lại thấy người đàn ông vẫn tiếp tục chạy xuống dốc. Trông anh ta giống như đang đuổi theo một thứ gì đó, hoặc có thể chạy trốn. Cảnh tượng khốn khổ đó có gì đó khiến tôi cảm thấy ngột ngạt, rồi tôi dừng lại ở trên con dốc đó một lúc và quan sát anh ta cho đến khi anh ta biến mất trước khi tiếp tục leo lên đồi.
Cuối cùng tôi cũng đến được cửa hàng bách hoá, trông gần như vắng vẻ.
Nơi đặt cửa hàng là một căn nhà có mái xanh, và bên cạnh cửa trượt bằng kính mờ là một tấm biển chạm khắc bằng gỗ ghi "Công ty Gió Biển". Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào cho thấy có người sống tại đây. Viên gạch ngói nằm rơi rải rác trên nền đất, những chậu cây xếp cạnh cửa héo khô. Tôi tiến lại gần và dễ dàng mở cửa bằng một cái chạm. Mùi cát bụi bay ra khiến tôi khó thở. Bên trong, tôi có thể nhìn thấy một hành lang mờ và một cầu thang, nhưng thành thật mà nói nó giống một hang động hơn là nơi ở của con người. Từ đâu đó tận sâu bên trong, tôi lờ mờ nghe thấy tiếng nước chảy vào bồn rửa mặt. Vợ tôi ở một nơi như thế này sao?
"Xin chào?" Tôi run run cất tiếng gọi, trong đầu tôi hiện lên khung cảnh mình vừa đánh rơi một viên sỏi xuống một cái hố sâu thẳm. “Có ai ở đây không?"
Tôi căng tai ra nghe, và cuối cùng từ bóng tối ở đầu cầu thang, tôi nghe thấy một giọng nói nhẹ nhàng đáp lại, "Tôi đang đến!"
Đôi bàn chân trắng trẻo, thanh tú nhẹ nhàng bước xuống cầu thang gỗ mòn, và một khuôn mặt quen thuộc với làn da nhợt nhạt hiện ra từ bóng tối. Đó là người vợ của tôi, người đang mặc một chiếc váy mùa hè màu trắng.
"Này này, đồ kỳ cục. Em sẽ không thể tin nổi anh đã gặp rắc rối thế nào khi tìm em đâu," tôi đột nhiên lầm bầm cáu kỉnh.
Nhưng cô ấy chỉ nhíu mắt nhìn tôi.
"Vấn đề gì sao?" tôi hỏi.
Vợ tôi chỉ nghiêng đầu khó hiểu và hỏi, "...Anh là ai?"