Tập 10 chương 1 : Mùa hè quái dị
Độ dài 10,366 từ - Lần cập nhật cuối: 2023-10-15 20:16:02
Một đám đen cuộn xoáy giữa thiên không.
Dù đang giữa trưa nhưng bầu trời tối sầm như thể vầng dương đã khuất sau đỉnh núi. Thỉnh thoảng, giữa những màn mây thưa thớt có thể thoáng thấy chút tia sáng le lói của mặt trời nhưng chỉ lờ mờ hiện ra như một đồng xu bạc cũ kỹ.
Tháng 6 năm 325 lịch Pars vốn là mùa nóng, cái nắng chói chang kéo dài thiêu đốt cả con người lẫn cây cỏ. Tuy nhiên, trong 2 farsang từ biên giới phía đông đến thành Peshawar, bầu không khí lại se lạnh như đầu xuân.
Vó ngựa đạp lên nền đất xám của cánh đồng hoang, một đoàn người ngựa phi về thành Peshawar ở hướng đông. Một lá cờ đen tung bay phía trước. Đó là tộc Zot.
Tộc Zot từng là những tên cướp nổi tiếng ở vùng này. Nhưng sau khi trở thành đồng minh của Vua giải phóng Arslan, họ bắt đầu tham gia vào nhiều hoạt động dưới sự chỉ đạo của triều đình. Đôi khi họ thực hiện những nhiệm vụ bí mật, còn phần lớn thời gian họ thăm dò tin tức trên đất liền giúp nhà vua. Họ giương cao lá cờ đen tượng trưng cho vinh quang của gia tộc mỗi khi công khai sự hiện diện của mình.
Và đây là một lần như thế.
Không có nhiều người, chỉ khoảng 30 chiến binh, đi đầu là một thanh niên chừng 25 tuổi, quấn chiếc khăn xếp đính những viên đá lớn của xứ Turk. Anh cầm dây cương trên tay trái, cung tên tên trên tay phải, sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào.
"Chúng tới kìa, ngài Merlane!"
Anh chàng thủ lĩnh cáu kỉnh tặc lưỡi khi ngước mắt nhìn lên trời cao.
Những thứ giống như mây đen ấy tách ra thành những hình thù quái dị, bay xuống đoàn chiến binh tộc Zot. Hóa ra đó là những sinh vật có cánh với kích thước cơ thể gần bằng con người. Khuôn mặt và tứ chi của chúng lại giống vượn, miệng ngoác rộng, phát ra những âm thanh dọa nạt.
"Ta từng nghe ông nội kể về những con quỷ vượn có cánh kia. Chúng sống ở thành phố dung nham dưới lòng đất, phục tùng Xà vương Zahhak. Xem ra sắp có họa lớn rồi." Xà vương Zahhak, cái tên này luôn mang đến nỗi ám ảnh cho người dân Pars, nay cũng xuyên qua tâm trí những chiến binh tộc Zot như ngàn mũi tên vô hình. Chàng trai trẻ được mọi người gọi là Merlane ấy nhìn chằm chằm lũ quái vật bay trên không.
"Hừ, thì ra là tàn quân của Xà vương Zahhak. Không cần phải nương tay!" Chàng thanh niên buông tay trái khỏi dây cương, lấy mũi tên từ trong bao, lắp lên cung. Tốc độ cưỡi ngựa của anh ta không hề chậm lại, và mũi tên ấy phóng đi. Cưỡi ngựa bắn cung là kỹ năng cần thiết đối với mọi chiến binh tộc Zot, cho nên đó không phải điều đáng khen ngợi gì.
Một con quỷ vượn đang bay thì chợt đổi hướng, lao về phía Merlane. Ngay khi nó định giơ móng vuốt tấn công chàng trai trẻ thì bị mũi tên vừa phóng ra đâm thẳng vào ngực.
Nó gào lên một tiếng chói tai, chao đảo giữa không trung. Đôi cánh nó đập phần phật, thân thể lắc lư, muốn bay lên nhưng bị cơn khát máu thúc đẩy, quyết tấn công lần nữa.
Lúc này, hai chiến binh tộc Zot đồng loạt vung kiếm từ hai bên. Hai tay đầy móng vuốt của nó bị cắt làm đôi, máu phun đầy mặt đất.
Bị ba vết thương nghiêm trọng, dù là quái vật cũng không thể chống đỡ nổi. Nó gào lên thảm thiết, nghe như một tiếng nguyền rủa, rồi rơi xuống đất với một âm thanh nặng nề. Đầu và chân tay không còn chuyển động nữa, chỉ còn đôi cánh màu nâu không có lông vũ khẽ co giật.
Đúng lúc Merlane đang định giục ngựa đến gần xem con quái vật đã chết chưa thì chợt dừng lại vì nghe thấy tiếng vó ngựa phía xa.
Cách đó chừng 50 bước, một đoàn người ngựa đang phi nước đại tiến tới khiến bụi bay mịt mù trên mặt đất xám. Các chiến binh tộc Zot quan sát một hồi rồi thốt lên.
"Hóa ra là binh lính thành Peshawar. Ngài Kubard chỉ huy bọn họ." Người này vừa mới nói xong, một con ngựa xám khổng lồ nhảy tới trước mặt Merlane. Chủ nhân của nó là người đàn ông một mắt cao lớn mặc áo giáp, thanh cự kiếm đeo bên vai phải. Theo sau anh ta là chừng 50 kỵ binh nữa. Anh chàng mắt chột bình tĩnh khiển ngựa, phong thái ung dung thể hiện rõ bản lĩnh của kẻ từng trải khiến tộc Zot nể phục. Thấy Merlane, Kybard chào đón một cách nồng nhiệt.
"Đã lâu không gặp, tộc trưởng tộc Zot. Khỏe không?"
"Tôi không phải tộc trưởng, chỉ là quyền tộc trưởng."
Merlane đáp với giọng nói cộc lốc và vẻ mặt cau có, nếu ai không hiểu thì chắc chắn sẽ hiểu lầm là: "Anh ta đang bất mãn với vị trí của mình. Hẳn anh ta đang ôm ý đồ xấu xa nào đó để chiếm chức tộc trưởng." Nhưng thật ra chẳng có cái gì như vậy hết, chẳng qua anh ta chỉ đang sửa cách dùng từ của đối phương mà thôi.
"Ô, tính tình vẫn như xưa."
Kubard cười lớn và chẳng phật lòng chút nào. Những chiến binh tộc Zot đều cúi đầu một cách nghiêm trang với Kubard để tỏ lòng kính trọng. Tộc Zot chưa bao giờ coi sự tử tế và lễ phép là đức tính tốt, nhưng sự vô lễ thẳng thừng của Merlane với Kubard khiến họ sợ hãi.
"Được rồi, quyền tộc trưởng. Ta nghe tin hôm nay quân đội hoàng gia sẽ tới nên mới ra đây đón. Các vị có đi cùng nhau không?
"Không, ngài Tus sẽ mang quân đến sau."
"Ồ, Tus cũng tới ư? Hình như ở kinh đô đang có kế hoạch gì đó thì phải." Khác với trước đây, marzban chỉ là danh hiệu mang tính tượng trưng cho một số chiến binh và người đó không thực sự chỉ huy 1 vạn kỵ binh. Kể từ khi vua Arslan lên ngôi, các truyền thống vốn có của quân đội Pars dần thay đổi.
"Nhưng xem ra một vài vị khách không mời đã tới trước anh ta rồi." Kubard ngẩng đầu lên. Lúc này, những đám mây đen thưa dần, để lộ hình dáng mờ ảo của mặt trời, trông như một chiếc đĩa trắng. Vài con vật lạ màu đen bay lượn bên dưới.
Khoảng 10 con quỷ vượn vẫn đang vỗ cánh là kêu gào, bầu không khí quỷ dị đến rợn tóc gáy.
"Ta nghe nói mới tháng trước, một con quỷ vượn có cánh đã xuất hiện ở kinh đô hoàng gia Ecbatana, gây náo loạn trong cung điện."
"Chà....Ta nghĩ vùng biên giới này cũng không chịu thua kém kinh thành đâu." Kubard bật cười, bình tĩnh nhận xét, nhưng giọng anh ta có chút khác lạ không dễ nhận thấy.
"Mọi người, xếp thành vòng tròn. Chúng chỉ có thể tấn công từ bên trên hoặc phía trước thôi."
"Đã nghe rõ chưa?"
Lời của Merlane là câu hỏi, cũng là mệnh lệnh. Các chiến binh tộc Zot gật đầu, mỗi người quay một hướng, nhanh chóng tạo thành hình bán nguyệt. Người của Kubard tuy chậm hơn một chút, nhưng cũng nhanh chóng làm theo. Hai đội xáp vào nhau, hòa làm một, tạo thành hình tròn có đường kính chừng 40 gaz. Kubard và Merlane ở giữa vòng tròn. Bằng cách này, họ có thể dùng cung và kiếm yểm trợ phía sau các chiến binh.
"Merlane, có một bầy như vậy xuất hiện ở kinh thành không?
"Tôi không rõ. Nhiều lắm là một hai con thôi."
"Ta tưởng phải nhiều hơn chứ? Chúng từ đâu đến?"
"Thật ra..."
Merlane mới nói được đến đó thì quá nhiều chuyện xảy ra.
Với tiếng gầm như xuyên thủng màng nhĩ, lũ quỷ vượn có cánh ồ ạt lao về phía họ. Hàng trăm mũi tên được phóng ra, tạo thanh một cơn lốc bằng sắt thép. Những con ngựa hí lên, dựng đứng trên hai chân sau, khiến các chiến binh trên lưng chúng ngã xuống.
Một lúc sau vẫn chưa xác định được giữa người và quái vật, bên nào chiếm ưu thế. Khi Merlane bình tĩnh lại, anh nghe tiếng vó ngựa rầm rập đến gần.
Một con quỷ vượn có cánh định vươn móng tấn công Kubard nhưng đột ngột dừng lại. Cổ của nó bị quấn chặt bởi sợi xích sắt khổng lồ. Đó chính là món vũ khí độc đáo của những nô lệ da đen Nebataena, mà người sử dụng nó thành thạo nhất xứ Pars chính là Tus.
Sau khi chào hỏi Kubard bằng ánh mất, Tus kéo thẳng con quỷ xuống đất. Kubard thấy anh ta được bảo vệ bởi ba nữ chiến binh quấn khăn trùm đầu, theo sau họ còn khoảng 1000 kỵ binh nữa.
Tuy nhiên, Tus không hề dừng tay. Anh quăng xích khi con quái vật vẫn còn treo lủng lẳng ở đó. Sợi xích xoáy tròn như chiếc cối xay gió khổng lồ giữa không trung. Cuối cùng, cánh tay trái của con quỷ vượn phát ra âm thanh kỳ quái rồi đứt lìa ra do lực kéo quá mạnh. Phần thân còn lại của nó văng ra xa, vẫn còn nguyên vẹn.
Đôi mắt con quỷ vằn vện máu. Nó há ngoác miệng, để lộ hàm răng như một cái kìm. Nó lấy đà bằng hai chân sau, định nhảy lên cắn đứt cổ Tus.
Đúng lúc này, ba ngọn giáo phóng ra từ ba hướng, xuyên qua cơ thể con quái vật. Ba nữ chiến binh đi sau Tus vẫn luôn đề cao cảnh giác.
Lần này, con quái vật hét lên, máu phun ra từ các vết thương. Sau khi ngã xuống, gặp cánh của nó vùng vẫy một hồi rồi bất động.
"Tuyệt quá, Tus. Anh lúc nào cũng đến đúng lúc." Nói rồi. Kubard nhìn ba nữ chiến binh đồng hành với vị tướng.
Ba người họ đều chỉ có gương mặt bình thường, dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu, nhưng dáng vẻ rạng ngời và sức sống mãnh liệt toát ra từ cơ thể khiến họ vô cùng thu hút.
Kubard rất để tâm đến họ. Người ta thường nói "Gieve thích người đẹp, Kubard thích phụ nữ", cho nên phản ứng của anh ta như vậy là bình thường.
"Tus, những nữ chiến binh xinh đẹp này là cận vệ của anh hả?"
"Không, họ là vợ tôi."
"Ồ, anh đã kết hôn rồi sao?"
Kubard gật đầu, nhưng sau đó nhìn Tus chằm chằm, xác nhận lại, "Họ, tức là...."
Tus nhìn Kubard với dáng vẻ bình tĩnh. Anh đáp, "Vâng, cả ba đều là vợ tôi. Thực ra...." Câu nói của Tus bị cắt ngang bởi tiếng hét của lũ quái vật. Có lẽ bầy quỷ vượn có cánh đã từ bỏ đối đầu với đội quân loài người hùng hậu kia, chỉ đập cánh trên không, phát ra những âm thanh dọa nạt. Vài chục mũi tên bay tới, xua đuổi chúng về sau những đám mây.
Con người không thể truy bắt được chúng. Còn về phần chúng trốn đi đâu, một vị quân sư thiên tài nào đó đã đoán ra rồi.
----------------------
Nhiệm vụ của thành Peshawar là bảo vệ biên giới phía đông của Pars. Một trách nhiệm không kém phần quan trọn khác là đảm bảo sự an toàn trên Đại lục vương lộ, đảm bảo các đoàn lữ hành, thương buôn có thể di chuyển từ đông sang tây, từ tây sang đông an toàn.
Những thương nhân ấy thường bắt đầu theo cha hoặc chủ từ khi mưới mười mấy tuổi, rời xa gia đình, băng qua núi tuyết, sa mạc hay rừng thẳm, trốn tránh thú dữ, bảo vệ hàng hóa khỏi những tên cướp luôn rình rập. Hành trình của họ đôi khi kéo dài đến vài năm. Không có lòng kiên trì như vậy thì không thể trở thành một thương nhân giỏi.
Nhưng ngay cả nhà buôn liều lĩnh nhất cũng không bao giờ dám đánh cược mạng sống của mình. Một khi gặp phải kẻ cướp, mất tiền mất của cũng không sao, ít nhất phải giữ được mạng mình. Hay đôi khi có những quan chức địa phương muốn đòi tiền hối lộ, cản trở việc làm ăn, không nghe theo thì đi đường núi có thể gặp phải "tai nạn." Có thể nói, dọc đường xuyên lục địa có vô vàn mối hiểm nguy nên phải nộp thuế, cống nạp sản vật cho chính quyền các nước để họ tiêu diệt lũ cướp, xây sửa đường xá.
Chuyến đi an toàn thì tự nhiên việc kinh doanh cũng sẽ phát đạt. Thương nhân càng nhiều tiền, ngân khố các quốc gia càng đầy ắp. Để nâng cao uy tín đất nước và làm giàu ngân sách, Pars hay bất cứ quốc gia nào cũng quan tâm đến việc bảo vệ các tuyến đường bộ.
Khi ba vị tướng Kubard, Tus và Merlane quay về pháo đài Peshawar xây bằng đá sa thạch đỏ, họ được đón chào trong những tiếng tung hô vang dội của các thương nhân. Chuyện là cách đây mấy hôm, người ta đồn trên đường phố xuất hiện một loài sinh vật lạ - những con quỷ có cánh – thường tấn công du khách. Họ buộc phải xin vào thành để ấn nấp. Không chỉ người mà cả ngựa, lạc đà cũng tập trung ở quảng trường. Có người đã ở đây suốt 3 ngày rồi. Những đoàn lữ hành vô cùng háo hức thu dọn lều bạt, chuẩn bị lên đường bất cứ lúc nào.
Với tư cách là marzban chỉ huy 1 vạn kỵ binh và là tướng bảo vệ thành Peshaward, Kubard ngồi trên lưng ngựa vẫy tay chào. Lúc này, người đứng đầu hội thương nhân bước tới bày tỏ lòng biết ơn, hy vọng anh sẽ nhận số tiền quà, nhưng Kubard thẳng thắn đáp.
"Không không, nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ người dân. Ta không thể nhận số tiền này. Tuy nhiên, nếu ngài cứ kiên quyết thì ta sẽ nhận một ít để sắm sửa cho các binh sĩ." Tiếng hoan hô lại trỗi dậy. Nếu cuộc trò chuyện này diễn ra ở đâu đó kín đáo thì người ta sẽ xì xào "Kiểu gì chẳng bỏ túi riêng". Nhưng nay Kubard đã tuyên bố rõ ràng như thế trước mặt các mọi người nên không ai có thể chỉ trích anh ta. Vị tướng một mắt này được người dân vô cùng yêu quý nhờ phong thái anh dũng cùng chiến tích vượt trội. Ngoài ra, dù tính cách có phàn bốc đồng nhưng anh ta vui vẻ, hào sảng, quan tâm đến người nghèo, người bệnh, đồng thời không dung thứ cho sự ngạo mạn của những kẻ quyền thế.
Sau khi giao cho phụ tá của mình sắp xếp đưa những người bị thương đi chữa trị cùng vài việc lặt vặt khác, Kubard đón chào các vị tướng đến từ kinh đô Ecbatana trong căn phòng nghị sự. Đó là nơi Kishward thường dùng để tiếp khách hồi Pars còn đang bị Lusitania xâm lược. Căn phòng mà thái tử Arslan ở năm xưa vẫn còn nguyên, và có lẽ sẽ có cơ hội được sử dụng tiếp.
Kubard ra lệnh cho người hầu mang đồ ăn và rượu ngon đến mời các đồng nghiệp, còn bản thân thì ngồi xuống sàn nhà trải thảm, bắt đầu hỏi han chuyện kết hôn của Tus.
Tus kể với thái độ điềm tĩnh như thường lệ.
Tus có một người đồng đội hơn anh 10 tuổi tên là Banipal. Tuy chiến tích không huy hoàng như Tus nhưng ông ta cũng giữ chức chỉ huy 1000 kỵ binh và là một chiến binh dũng cảm. Ông ta chiến đấu chống lại quân xâm lược Lusitania dưới trướng Tus và bị thương nặng. Sau khi trận chiến giành độc lập kết thúc, nhận được khen thưởng, ông ta quyết định về quê nghỉ ngơi. Tuy nhiên, vết thương trở nặng và rất lâu sau cũng không khỏi. Ông nằm liệt giường và qua đời vào tháng trước. Số vàng được thưởng đều dùng để chữa bệnh, không còn lại đồng nào.
Trong số các di vật của Banipal có một lá thư Tus gửi. Khi Banipal chuẩn bị hồi hương, Tus trao ông ta bức thư này để ca ngợi công lao và bảo "Có khó khăn gì cứ nói với ta."
Người vợ góa của Banipal chưa gặp Tus lần nào, vì bà cũng yếu đuối bệnh tật, chỉ lo ba cô con gái không biết phải sống sao sau khi cha mẹ qua đời, thế là nhắn cho Tus để xin giúp đỡ. Tus lập tức xin phép vua Arslan, vội về quê hương của Banipal, mang theo những đồng tiền vàng.
Và sau đó là câu chuyện nổi tiếng "Tus chọn vợ" được người Pars về sau truyền miệng.
Biết Tus là một người hào hiệp và còn độc thân, bà vợ góa của Banipal muốn gửi gắm ba cô con gái cho vị tướng nổi tiếng này. Bà bảo ba cô ăn mặc đẹp, tự nấu đồ ăn ngon và chơi đàn balalaika cho Tus giải khuây. Sau khi thấy Tus có ấn tượng tốt với các cô, các cô cũng ngưỡng mộ Tus, bà goá liền bảo Tus hãy chọn một người làm vợ.
Tus cảm thấy xấu hổ và vô cùng bối rối. Cả ba cô gái đều có nhan sắc và tài năng, anh thật sự không biết phải chọn ai.
Thế là góa phụ Banipal đã nghĩ ra một cách, hoặc là có ai đó đã chỉ cách cho bà. Bà bảo cô con gái lớn mang ra những hạt thủy tinh màu đỏ, cô con gái thứ hai mang ra những hạt thủy tinh màu anh, cô con gái thứ ba mang ra những hạt thủy tinh màu vàng. Họ bỏ ba loại hạt vào cùng một chiếc bình rồi bảo Tus cho tay vào lấy một hạt bất kỳ. Anh chọn được hạt màu nào thì lấy người con gái tương ứng.
Tus không thể thừ chối nên đã làm theo. Anh nhặt lấy một hạt, đến khi mở lòng bàn tay ra thì viên thủy tinh lại là màu đen. Anh thử đến lần thứ hai, thứ ba liên tiếp mà vẫn vậy.
Nhìn người góa phụ tội nghiệp, Tus suy nghĩ một hồi rồi quyết định đưa ra ý kiến của mình.
"Dù ta không có tài năng hội họa nhưng đã nghe vị họa sĩ cung đình của Arslan bệ hạ nói: nếu trộn màu đỏ, màu xanh và màu vàng lại thì sẽ thành màu đen, nên ta không muốn chọn ra bất cứ ai trong số ba cô gái. Nếu được, ta muốn cùng ba nàng chung sống đến hết đời."
Ba cô con gái vỗ tay reo hò. Cuối cùng góa phụ cũng hiểu, hóa ra các cô cố ý bày trò. Bằng cách đó, Tus cưới được ba người vợ đẹp. Về sau, câu chuyện này cũng trở thành nguồn gốc cho phong tục rằng : khi một cô gái tặng cho chàng trai đến cầu hôn mình một hạt thủy tinh màu trắng hay trong suốt thì có nghĩa là từ chối.
Trong số các vị tướng cùng sát cánh chiến đấu với vua Arslan trong công cuộc giải phóng Pars khỏi cuộc xâm lăng của Lusitania, Tus là người già dặn nhất. So với các chiến binh trẻ tuổi máu nóng khác, anh luôn điềm đạm, trung thành và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ dù trong thời chiến hay thời bình. Anh được cả Arslan lẫn những đồng nghiệp khác tin tưởng và tôn trọng.
Và giờ đây, Tus còn đạt được "thành tựu to lớn" mà cả những chơi nổi tiếng như Kubard và Gieve đều không sánh được.
Về phần ba chị em đã trở thành vợ của Tus, cô chị cả tên Patna 18 tuổi. Cô thứ hai tên Korra, 17 tuổi. Cô thứ ba tên Yolin, 15 tuổi. Chiều cao của chị cả và chị hai gần bằng nhau, cô em út thì thấp hơn một chút. Vì họ là chị em ruột nên đương nhiên ngoại hình rất giống nhau, càng nhỏ tuổi tóc càng sáng màu. Patna có phong thái điềm tĩnh, dịu dàng nhưng quả quyết. Korra thông minh, sắc sảo, hoạt ngôn. Cô út Yolin ngoan ngoãn, ít nói dù hơi quá dính người. Các chị gái của cô thường nhắc cô phải chú ý hoàn cảnh hơn một chút. Cái cách cô theo sát Tus khiến người ta liên tưởng đến một chú chó trung thành.
Kubard nghe Tus kể chuyện với vẻ mặt hứng thú. Sau một hồi im lặng, anh nhún vai và hào sảng nói.
"Không ngờ ông anh tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi nhá, anh chàng biến thái." Giọng điệu của Kubard khá thô lỗ khi bảo đối phương "biến thái ngầm". Nếu người nghe mà là ai khác thì có lẽ đã đánh nhau, nhưng Tus không như vậy mà chỉ nghiêm túc đáp.
"Bản thân tôi không nghĩ thế nhưng người ta bảo vậy, tôi cũng không có gì biện minh." Lần này đến lượt Kubard cạn lời.
Khi Tus báo cho Arslan tin vui là anh đã cưới ba người vợ cùng lúc, vị vua trẻ, người đã trải qua trăm trận chiến đến nỗi tưởng chừng không điều gì khiến chàng chấn động, chỉ biết nói "Thật tốt quá. Chúc mừng anh!" rồi không thốt nên lời. Một lúc sau, Arslan quay nhìn nhạc sĩ cung đình Gieve, mỉm cười.
"Cái đó người ta gọi là 'không cầu mà có' đấy Gieve."
Sau khi kể xong chuyện riêng của mình, quý ngài "không cầu mà có" ấy nói với ba người vợ.
"Giờ ta phải bàn một vài việc quan trọng. Các nàng hãy sang phòng bên kia uống chút trà hoa hồng và nghỉ ngơi." Không giống một kẻ "biến thái ngầm" như Kubard mô tả, thái độ của Tus giống một người cha hiền từ hơn, nhất là với cô út Yolin. Cô mở to đôi mắt, nài nỉ Tus.
"Thiếp sẽ không cản trở chàng đâu, cho thiếp theo được không, ngài Tus?"
"Yolin, đừng mè nheo nữa. Nếu ảnh hưởng đến danh tiếng của ngài Tus thì em không phải người vợ tốt đâu, mà bọn chị cũng phiền lòng nữa." Patna khiển trách cô với sự uy nghiêm như một người mẹ, còn cô chị hai Korra mỉm cười, chân thành nói.
"Phải đấy Yolin, muốn ôm đùi ngài Tus thì đợi đến tối đi." Yolin vốn ghét bị đối xử như trẻ con nên giận dữ đuổi theo Korra đang vừa cười vừa chạy.
"Xin lỗi đã làm phiền ngài." Patna cúi đầu chào rồi dẫn các em đi, bỏ lại mấy người đàn ông, ai nấy đều đang cười.
"Không tệ, rất náo nhiệt."
Kubard nói và Tus đáp.
"Ừ, ngày nào cũng vậy cả, tôi không bao giờ cảm thấy nhàm chán nổi."
"Được rồi, sau khi anh về, ta sẽ tặng anh một xe lừa chất đầy đường nâu." Ở Pars có tục lệ tặng đường nâu cho các cặp vợ chồng mới cưới. Đường nâu là đồ xa xỉ, cũng có ý nghĩa "ngọt ngào như vợ chồng son."
"Thôi, ngài đem tặng cho các binh lính đi."
"Không bàn nữa, quyết rồi. Giờ nói chuyện chính sự." Kubard uống cạn cốc bia lớn rồi quay sang nhìn Tus.
"Vậy lần này anh từ kinh đô tới có chuyện gì?"
"Phụng theo lệnh của triều đình, tôi đến mượn quân của ngài Kubard để phong tỏa núi Demavant."
"Phong tỏa Demavant?"
Vùng núi Demavant rất rộng lớn và cho đến nay chưa có ai khám phá hết nơi bí ẩn này. Người ta chỉ nhìn thấy nó khi đi trên đường và hô vang tên của Vua anh hùng Kai Khosrow. Thực ra, muốn phong tỏa cũng không mất quá nhiều công sức, nhưng huy động ngần ấy binh lính thì hẳn phải có nguyên nhân đặc biệt.
"Nếu chỉ chặn đường mòn từ chân núi thì chỉ cần hai ba nghìn người là đủ. Muốn bao vây toàn núi thì cần đến 5 vạn người. Chúng ta có đủ quân để triển khai không?" Pars là một quốc gia có sức mạnh quân sự vượt trội. Dù từng bị Lusitania xâm lược nhưng sau khi tái thiết, họ lập tức tiêu diệt Lusitania, bình định Sindhura, đánh bại Turan, Mirs và Turk. Quân kỳ cắm dọc theo Đại lục vương lộ. Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ Lusitania chiếm đóng, họ bị tổn thất nặng về lực lượng, cho đến nay vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
"Về phần ta, ta phản đối việc đánh rắn động cỏ, tạo cơ hội cho vị vua láng giềng xấu tính kia giở trò." Vị vua láng giềng xấu tính mà Kubard nói chính là Rajendra đệ nhị của Sindhura. Lãnh thổ Sindhura nằm ngay bờ kia con sông Kaveri, đối diện thành Peshawar.
Nếu quân của thành Peshawar di chuyển hết đến núi Demavant, bỏ bê việc phòng thủ biên giới thì ai biết Rajendra sẽ giử trò gì, vậy nên không được lơ là chỉ một phút.
"Hắn ta không xấu xa đến thế đâu, chỉ là có chút mặt dày, ích kỷ, toan tính và không thể cầm lòng trước cám dỗ mà thôi."
"Tus, đó là ý kiến của anh sao?"
".....Là câu nói nguyên văn của ngài phó tể tướng."
"Ngài quân sư vẫn cay độc như ngày nào."
Ở Pars hiện giờ, nhắc đến phó tể tướng, ngài quân sư hay họa sĩ cung đình thì đều là cùng một người. Nhân vật nổi tiếng này phá vỡ quan điểm "trăm hay không bằng tay quen", anh ta văn võ song toàn, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, chỉ riêng tài năng về chiến lược quân sự và chính trị thôi đã nổi danh khắp Đại lục vương lộ.
"Lũ quỷ vượn có cánh là thuộc hạ của Xà vương Zahhak. Chắc chắn hang ổ bọn chúng ở núi Demavant. Ngài quân sư muốn xua đuổi lũ quái vật đó à?" Kubard khoanh tay.
"Hôm qua 1 con, hôm nay 10 con, mai có thể lên tới trăm con. Có phải đó là điều ngài Narsus lo lắng không?"
Tus cố đoán nhưng anh cũng không biết câu trả lời chính xác.
Kubard ngửa cổ uống cạn cốc bia, dùng ngón tay cái lau bọt bên khóe miệng, lẩm bẩm.
"Từ góc độ chiến lược, cách tiếp cận này là nước đi tồi. Khi chúng tăng quân số thì ta cũng tăng phòng thủ lên là được. Mục đích của chúng chỉ là khiến ta hoang mang thôi."
"Nhưng ngài quân sư cũng nói, một khi Xà vương sống lại, những biện pháp phòng thủ của con người gần như vô dụng nên chúng ta cần cố hết sức ngăn chặn chuyện đó."
Kubard nhìn Tus bằng cặp mắt sắc bén, rồi quay sang nhìn Merlane.
"Sao cậu không nói gì? Nãy giờ cậu chỉ ngồi nghe rồi ăn uống một mình thôi sao?"
"Đương nhiên, khách phải ăn hết đồ ăn do chủ mang ra. Nếu chủ nhà không động tay thì khách phải giải quyết hết đồ ăn trên bàn, đó là phong tục của tộc Zot." Merlane không giỏi ăn nói mà nói một câu trôi chảy vậy, chắc là đã luyện tập từ trước.
"Tôi cũng có chuyện muốn nói với ngài, nhưng đợi tôi ăn kati xong đã." Lúc này, kati đã được bưng lên, trên đĩa cơm cháy còn được rưới súp nóng. Dù đang là mùa hè nhưng không khí khá mát mẻ. Vào ngày thời tiết như thế này thì đây quả là món ăn sưởi ấm lòng người. Sau khi ăn hết kati bằng chiếc thìa lớn, Merlane thỏa mãn thở dài một tiếng, nhấp ngụm trà xanh rồi bắt đầu kể lại những chuyện xảy ra ở kinh đô Ecbatana.
-------------------------------
Những ngày này, người dân Ecbatana được hưởng những ngày yên bình thường lệ.
Chỉ có những con người của cung điện là lo lắng truy tìm tung tích hoàng tử Hilmes cùng các chiến binh Turan đã trốn ra biển sau khi cướp tàu ở Sindhura. Không có tin tức gì đáng nói, mà đó cũng không phải vấn đề duy nhất cần giải quyết hiện giờ.
"Ta đang nghĩ....con người có phải loài sinh vật tàn ác nhất hay không?" Mỗi ngày đều có vô số vụ kiện tụng khiến Arslan không khỏi thở dài. Tranh thủ thời gian giải lao giữa những phiên xét xử, các thuộc hạ của chàng bàn tán vè việc Tus mới kết hôn.
Vua Arslan tuy còn trẻ nhưng đã từng vật lộn trong cảnh lưu vong khốn khó, vì vậy chàng luôn nghĩ đến những hoàn cảnh tồi tệ nhất.
"Dù ta vẫn tiếp tục triển khai các chính sách bảo trợ cho gia đình các binh sĩ đã hy sinh, nhưng lại sơ sót ở chỗ Banipal. Nếu không có lòng tốt của Tus, góa phụ của ngài Banipal cùng các cô con gái sẽ không thể sống ổn định. Tus đã giúp ta lần này rồi."
Gieve đáp, "Bệ hạ, giúp đỡ chỉ là hình thức thôi. Trên đời không có ai hy sinh bản thân chỉ vì lòng nhân ái đơn thuần đâu."
"Đúng là như vậy, thưa bệ hạ. Tus cư xử như một nhà hiền triết, nhưng dù sao anh ta cũng chỉ là người phàm." Người lên tiếng là Isfan. Anh ta không hợp với Gieve nhưng chí ít anh đồng tình với quan điểm này. Nhân tiện, giờ người chung sống với Isfan không phải cô gái nào, mà chỉ có hai con sói con.
"Được rồi, dù mọi người có nói gì đi chăng nữa thì sự thật là Tus đã giúp đỡ ba mẹ con góa phụ tội nghiệp. Những lời này có thể khiến anh ấy không vui đâu." Nghe Arslan nói, cả Gieve và Isfan đều im lặng. Đôi khi Arslan nói đùa trước điều người ta coi là hệ trọng, còn nghiêm túc với những thứ người khác xem như trò đùa.
Với tư cách là quân vương, Arslan đương nhiên rất bận rộn, nhưng có một chuyện đáng tự hào là bất chấp lịch trình dài dằng dặc cả ngày ấy, việc tái thiết thư viện hoàng gia cuối cùng đã hoàn thành.
Khi quân Lusitania chiếm đóng kinh đô Ecbatana, giáo hoàng Bodin đã thiêu hủy hàng nghìn cuốn sách quý. Sau hành động dã man này, việc phục hồi hết sức khó khăn. Sách được thu thập từ khắp mọi nơi trên cả nước, bao gồm cảng Gilan. Họ mua lại từ các thư viện tư nhân rồi đưa vào quá trình tái thiết.
Arslan thậm chí còn có tham vọng lớn hơn nữa. "Hoàng gia phải tài trợ cho các trường học lớn, trả công cho những thầy giáo giỏi, giúp đỡ những đứa trẻ hiếu học muốn được đến trường."
"Bệ hạ, kế hoạch của người rất chu đáo, nhưng hầu hết trẻ em ngoài kia đều ghét học. Có những đứa còn bỏ nhà đi vì bị ép học nữa cơ.."
"Gieve, Isfan, ta đang rất nghiêm túc. Ta không bắt tất cả những đứa trẻ phải đi học. Ta chỉ hy vọng có thể giúp những đứa trẻ muốn đến trường nhưng không có điều kiện. Bản chất ta là kẻ hẹp hòi, không chấp nhận người ngồi vào ghế tể tướng hay thống lĩnh binh sĩ trong tương lai là kẻ mù chữ." Arslan mỉm cười, vuốt ve tấm bìa của một cuốn sách. Đó là tập tơ ghi chép chuyện đời của các vị vua xứ Pars.
"Chúng ta có thể hiểu được cách cai trị của Vua thánh hiền Ramshid và hình dung ra những mảnh đất cách xa chúng ta vạn dặm, tất cả là nhờ có sách. Chúng ta nên trân trọng sách hơn." Mỗi lần nghe được lời khôn ngoan từ vị vua nổi tiếng của mình, các cận thần đều nói "Vâng, bệ hạ sáng suốt", nhưng trong lòng cũng rất lo lắng. Quốc vương chỉ mới 18 tuổi, tùy tiện một chút có sao đâu. Dù ngài dự định 5 năm nữa mới lập hậu, nhưng ít ra hiện giờ cũng nên sủng ái vài người đẹp chứ.
"Lẽ nào....Arslan bệ hạ đã vướng phải "Tình yêu trong khung tranh" mất rồi?" Câu nói này liên quan đến một điển cố.
Vợ của vị vua thứ 5 của xứ Pars, Kinnamus tên là Elubel, được các sử gia, các nhà thơ ca tụng là có vẻ đẹp vô song.
"Làn da như tuyết trên núi được ánh ban mai đầu xuân chiếu rọi, mái tóc như cánh đồng lúa mạch đẫm sương, đôi mắt như ngôi sao Suhail rực rỡ nhất trên bầu trời, đôi môi như nụ hoa tulip đỏ mọng...." Lời mô tả có thể hơi cường điệu, nhưng tóm lại nàng là mỹ nhân có một không hai trên đời, ai ai cũng biết. Hơn nữa, nàng lại mất khi chỉ mới tròn 20 tuổi, khiến người ta càng thương xót cho số phận hồng nhan bạc mệnh. Nàng thành cảm hứng cho vô số thi nhân đời sau, các họa sĩ cũng vẽ ra vô số bức tranh tán tụng nhan sắc nàng.
Vị vua thứ 10 của Pars, Catlicos có một người con trai tên Alcasio, được phong làm thái tử năm 18 tuổi. Tính tình chàng ta không có gì để chê trách, thường giúp đỡ cha mình việc triều chính. Chàng yêu văn chương hội họa. Thân là vua tương lai, chàng có trách nhiệm bảo vệ nền văn hóa nghê thuật Pars, cho nên sở thích này được các cận thần ủng hộ. Tuy nhiên, một ngày nọ, chàng ta bắt đầu bị ám ảnh.
Alcasio đã yêu Elubel ngay sau khi nhìn thấy bức chân dung nàng trong khung tranh vỏ sò.
"Ta yêu Elubel, ta chỉ muốn nàng làm vợ ta." Các cận thần sửng sốt, vua Catlicos càng tức giận hơn.
"Nhà ngươi đã 18 tuổi rồi mà còn không phân biệt được hiện thực với ảo tưởng. Cung điện này không cần đến đứa vô dụng như ngươi. Chừng nào có ý thức của một bậc quân vương thì hãy quay trở lại." Thế là Alcasio bị trục xuất khỏi hoàng cung. Nửa năm sau, khi cả thể xác và tinh thần kiệt quệ vì mong mỏi một tình yêu vô vọng, chàng ta chết trong đau buồn.
Catlicos, người mất đi đứa con trai duy nhất, đã sống đến 80 tuổi trong nỗi thất vọng. Ông ta truyền ngôi cho cháu trai, là con của anh mình, tức Osroes đệ tứ.
Osroes còn 2 người anh em nữa. Xét về tài năng thì truyền ngôi cho ai trong ba người này cũng được. Nhưng Osroes đã cưới con gái của vị vua già Catlicos, em gái Alcasio làm vợ, và trở thành người chiến thắng sau cùng. Sau khi lên ngôi, vì lý do nào đó, Osroes đệ tứ coi trọng đứa cháu trai Paldyuk hơn cả con ruột của mình. Ông từng có ý định nhận anh ta làm con nuôi và truyền ngôi lại, vậy nên thân phận thật sự của Paldyuk trở thành mối nghi ngờ. Tin đồn lan rộng, triều đình chia làm hai phe, dẫn đến một trận âm mưu tranh đoạt kéo dài tận 5 năm.
Vì lý do đó, cụm từ "tình yêu trong khung tranh" không mang ý nghĩa gì tốt đẹp.
Arslan đã đạt được nhiều thành tựu to lớn khi giành lại vương quốc từ tay quân xâm lược. Tinh thần đề cao sự công bằng trong xã hội của chàng được người dân vô cùng ủng hộ. Chính vì thế, chuyện hôn nhân của chàng cũng thành đề tài được cả nước bàn tán xôn xao.
"Ta mong bệ hạ sớm cưới được một hoàng hậu thông thái."
"Và sinh ra một hoàng tử xuất chúng."
Sự mong đợi này vô tình tạo áp lực lớn cho người trong cuộc, nhưng may thay Arslan vốn rất nhân từ. Lần nào chàng cũng chỉ mỉm cười và khéo léo chuyển đề tài. Tất nhiên nếu chuyện xảy ra quá thường xuyên, dù chàng có kiên nhẫn đến mấy cũng khó lòng bình tĩnh được. Cho nên mỗi khi tình cảnh trở nên khó xử, Elam và Jaswant, những người hầu cận luôn túc trực cạnh chàng, thường tìm cách giúp chàng giải tỏa nỗi lo.
Ngày hôm đó, Arslan, Elam và Gurazeh, một anh chàng thương nhân trên biển, đã có cuộc gặp mặt bí mật ở quán Bách công nương, chỉ vài ngày sau khi con quỷ vượn có cánh tấn công cung điện.
Arslan rời cung điện cùng Elam, thong thả dạo chơi trong khu chợ. Chàng không muốn mua gì, chỉ cần nhìn núi hàng hóa chất đống là đã đủ vui mắt. Khi chàng đang tò mò hỏi giá người chủ sạp buôn, đột nhiên có một cuộc hỗn loạn xảy ra. Tiếng chửi bới ầm ầm phía trước, đám đông chạy tứ tán, vài người ngã xuống đất, lũ trẻ khóc om sòm, còn đám quan chức đang đuổi theo đằng sau thì biến sắc.
"Xin làm ơn ban Phúc thánh cho tôi!" Có người kêu lên, nắm lấy góc áo của Arslan. Người đàn ông liều lĩnh này ngã vật trên mặt đất, nhất quyết không buông tay.
"Phúc thánh được thiết lập ! Quan viên không được ra tay với người này!" Elam quát lên.
Cái gọi là ban Phúc thánh là một phong tục truyền thống không chỉ có ở Pars mà nhiều nước khác trên đại lục. Những nô lệ bỏ trốn, những phạm nhân bị truy nã, những người vợ trốn thoát khỏi người chồng bạo lực....Tóm lại là việc kẻ yếu thế tìm đến người quyền quý như hoàng gia hay thầy tu cấp cao, nắm lấy tay áo, ống quần, đuôi ngựa, bao kiếm hay roi ngựa của đối phương.
Một khi người có quyền thế ấy đồng ý, tức là Phúc thánh được thiết lập, các quan chức không được quyền bắt giữ người đó, kể cả khi đã bị kết án. Những người được ban phúc thánh sẽ bị giam lỏng trong cung điện hoặc đền thờ để chờ điều tra xong vụ việc. Vì vậy, ngay cả với một xã hội không hoàn toàn công bằng, họ cũng có thể sửa chữa theo cách này.
"Phúc thánh được thiết lâp! Phúc thánh được thiết lập! Các quan chức tránh ra!"
"Nói nãy giờ rồi, là Phúc thánh của ai?" Đám đông lớn tiếng hỏi, nhưng rồi chợt có người kêu lên "Quốc vương bệ hạ!" Những người phía sau ùn ùn xô đẩy, muốn chen lên nhìn rõ, lại cũng có những người quỳ rạp xuống, khiến con phố náo loạn.
"Sau này cung điện sẽ có thông báo chính thức. Các vị hãy chờ một thời gian, xin đừng làm ồn." Sau khi nhắc nhở lần nữa, Elam hạ giọng.
"Bệ hạ, xin về cung thôi. Chuyện này không xử lý nhanh được đâu."
"Ta hiểu rồi. Đi theo ta."
Nửa câu sau chàng nói với người đàn ông đang quỳ dưới chân mình. Người này há hốc miệng, không thể tin nổi. Ban đầu, anh ta chỉ dựa vào trực giác và nhận ra đối phương là nhân vật cao quý nên mới xin được ban Phúc thánh. Anh ta không bao giờ ngờ rằng nhân vật cao quý ấy lại chính là "Vua giải phóng" Arslan.
Lần đầu tiên trong đời, người đàn ông này bước qua cánh cổng cung điện, ngồi dưới giàn hoa tươi mát trong sân vườn, được nhà vua tận tình hỏi han. Anh ta tên Halim, là người phục vụ ở nhà tắm.
-------------------------
Người phục vụ ở các nhà tắm công cộng rất bận rộn. Họ làm những việc như dùng xơ mướp chà lưng cho khách, cạo râu, cắt móng tay, đấm lưng, nặn mụn cóc trước khi tắm, sơn móng tay, thay thuốc nhuộm, bôi dầu mè, hoặc mang đồ uống cho khách, với khác nam thì là bia, với khách nữ thì là trà hoa hồng hoặc trà mật ong.
Nhà tắm công cộng được chia ra làm hai khu vực riêng cho nam và nữ, nam phục vụ tiếp khách nam, nữ phục vụ tiếp khách nữ.
Dù rất bận rộn nhưng thu nhập của họ không tồi. Nếu là nhân viên phục vụ lành nghề, số tiền thưởng của khách mỗi ngày có thể lên tới cả đồng bạc, cho nên có người chỉ cần làm 10 ngày mỗi tháng là đủ sống rồi. Chắc chắn có nhiều người muốn trở thành phục vụ nhà tắm, nhưng công việc đòi hỏi rất nhiều kỹ năng, phải rèn luyện vất vả mới có thể hành nghề độc lập. Ban đầu, họ sẽ chỉ bắt đầu với việc cọ rửa nhà tắm.
Thời kỳ tồi tệ nhất là khi quân Lusitania chiếm đóng. Hầu hết người Lusitania không tắm thường xuyên. Họ mặc một miếng đồ lót trong nhiều ngày liên tục. Họ thích nước hoa của Pars nhưng lại không thèm dùng. Người Pars dùng nước hoa không chỉ để làn da sạch sẽ thơm tho, mà còn để che bớt mùi hôi cơ thể của đối phương. Hơn nữa, khi say rượu, họ nhảy thẳng vào bồn tắm mà chưa cởi quần áo bẩn, làm vỡ các thùng bia, khiến nước văng vãi khắp sàn.
Một quý tộc Lusitania từng đi tiểu trong bồn tắm công cộng đã bị dân Ecbatana giết trong cuộc bạo loạn dành lại kinh đô. Halim vỗ tay ca ngợi các vị thần khi nghe tin này. Tên đó có xuất thân cao nhưng hành động thô lỗ, không hiểu cả phép lịch sự tối thiểu, đáng bị trời phạt.
Halim làm công việc phục vụ ở phòng tắm từ năm lên 13. Nhà tắm công cộng là chỗ làm, cũng là chốn linh thiêng của anh ta. Kẻ nào xúc phạm nơi đó đều đáng bị đày xuống 18 tầng địa ngục.
Halim có thể kiếm được 1 đồng bạc mỗi ngày nhờ công việc này, và nếu làm 20 ngày mỗi tháng thì anh ta đã đủ chi tiêu. Anh cảm thấy không chịu nổi sự ghen tuông của mấy bà vợ nên khẳng định sống độc thân là tốt nhất. Lúc nào vui thì mua cho mình một món trang sức bạc.
Halim rất tự hào về công việc. Anh ta cũng có niềm vui thầm kín nữa là nghe lén cuộc nói chuyện của các vị khách. Anh nghe chỉ để thỏa mãn tính hiếu kỳ chứ không có ý định gì khác.
Một vài người phục vụ trước đây trong nhà tắm thậm chí còn là gián điệp của hoàng cung.
Trong số những khách ra vào nhà tắm, có những kẻ cố tình chọn nơi này để bàn chuyện. Nếu kẻ đó nói "Ta đi nhà tắm công cộng" thì sẽ chẳng ai nghi ngờ. Hoặc dù không có công chuyện gì đi nữa, sau khi tắm xong, cơ thể ấm áp, xương cốt thả lỏng, lại đang ở trong một môi trường cởi mở, đương nhiên người ta sẽ muốn nói nhiều hơn. Nhiều lời đồn thổi đều từ "câu chuyện nhà tắm" mà ra. Ai muốn thu thập tin tức, vào nhà tắm công cộng còn dễ hơn quán rượu hay kỹ viện nhiều.
Ngày hôm đó, Halim vừa hoàn thành công việc buổi sáng của mình. Trước buổi trưa thường rất ít khách nên phần việc chủ yếu là dọn dẹp và chuẩn bị đón khách vào buổi chiều. Lúc này, một chủ xưởng bia tới thăm Halim, hai người bàn chuyện kinh doanh riêng.
"Sự tra tấn tàn khốc nhất trên đời này là không cho một anh chàng ly bia lạnh sau khi anh ta mới tắm xong." Đó là câu nói phổ biến xứ này. Việc kinh doanh bia trong các nhà tấm rất thịnh hành, đặc biệt là vào mùa đông, cho nên khi đông tới, các xưởng bia thường tập trung bán cho các nhà tắm hơn quán nhậu.
"Vậy nhà tắm của anh có thể nhập bia từ xưởng chúng tôi không?
"Hừm....Chúng tôi đã làm việc với xưởng bia Kasim 20 năm nay rồi. Trái lại, chúng tôi được gì nếu hợp tác với anh? Chứ không thì người khác lại nói chúng tôi lật lọng, trở mặt như trở bàn tay." Nhắc đến Kasim, sau khi người con trai tiếp quản việc kinh doanh từ cha mình, anh ta không còn quan tâm đến quản lý chất lượng nữa nên hương vị của bia đã kém đi nhiều. Nhưng anh ta chỉ nói "Thật sao? Tôi không để ý."
"Anh có thể thử dùng bia chỗ chúng tôi một lần."
"Nếu anh cung cấp bia miễn phí thì đương nhiên chúng tôi sẽ thử."
"Được chứ, thậm chí tôi còn có thể trả phí địa điểm."
"Điều kiện rất tốt, nhưng anh cũng phải hiểu khách chỗ tôi đã quen với vị bia của Kasim rồi. Dù sao tôi sẽ thử đặt trước một thùng xem phản ứng khách thế nào. Giờ thì tôi chưa thể hứa gì với anh được."
"Cảm ơn anh nhiều lắm, xin nhận chút lòng thành này. Tôi nghĩ nên tìm chỗ để thùng bia thôi."
"Anh chu đáo quá. Bảo sao anh làm ăn lúc nào cũng thành công."
Bất kể đất nước hưng vong thế nào, thiện ác xoay vần ra sao, người Pars, vẫn có một sức sống mạnh mẽ. Dẫu trong cảnh bị xâm lăng, bạo ngược hay tàn sát, không gì tiêu diệt được ý chí ấy. Như phó tể tướng Narsus từng nói :
"Một triều đại chỉ như dòng suối chảy qua lòng dân. Vậy cho nên, một dòng suối trong vẫn hơn một dòng suối đục." Và sự thật là như thế.
Halim vui vẻ quay lại làm việc, lau chùi những bồn tắm không sử dụng, đổ đầy nước nóng, sắp xếp những cái xô, xà phòng và xơ mướp.
"Này, để ý khách ở phòng tắm số 10 nhé. Tôi mua ít đồ ăn Serica, xong bọn mình làm một cốc." Ăn xiên nướng, uống bia xong rồi chợp mắt một lát. Hân hoan trong niềm vui nho nhỏ ấy, Halim phấn khởi bước đến phòng khách. Đột nhiên, anh dừng lại.
Có giọng nói vang lên gần đó. Halim nhìn quanh, lập tức hiểu ra.
Có khách đang nói chuyện trong phòng xông hơi. Để tránh xảy ra tai nạn ở phòng xông hơi quá kín, mỗi phòng đều có đường ống thông với nhau. Âm thanh từ đó thoát ra.
Halim cười thầm, nghĩ bụng phen này sẽ nghe được chuyện gì thú vị đây.
Halim không cảm thấy tội lỗi gì khi nghe lén, và anh cũng không dùng những điều mình nghe được để đe dọa hay chỉ trích người khác. Anh chỉ đơn giản nghĩ là được nghe đủ thứ truyện tầm phào trong một không gian bé xíu như cái nhà tắm công cộng thật là thú vị. Chẳng hạn như:
"Chủ hiệu thuốc Ogus hả? Chẳng phải cách đây không lâu, hắn mới cưới một cô vợ đẹp kém mình tận 20 tuổi sao? Không ngờ nhé, lúc cưới về rồi, cô ta khác hẳn vẻ bề ngoài. Uống rượu, đánh chống, luôn mồm đòi ly dị....Anh không biết thì thôi." Những chuyện đại khái như thế, và Halim thầm nghĩ thật quá đáng khi đem chuyện đời tư đau khổ của người khác ra làm trò mua vui cho mình.
Ngay khi Halim đang định ghé tai vào ống thông khí , một người phụ nữ bưng cái khay lớn tình cờ đi ngang. Cô ta chừng 30 tuổi, dáng người nhanh nhẹn, làn da màu lúa mì, gương mặt phúc hậu. Đó là Asaman, phục vụ ở phòng tắm nữ.
"Á à, Halim, anh lại nghe trộm nữa hả?"
"Không, đâu phải vậy. Đừng làm khó tôi chứ. Tôi chỉ quan tâm đến sức khoẻ của khách thôi."
"Rồi rồi, nhớ chừng mực thôi kẻo lại gặp rắc rối đấy."
"Đừng nói nhiều nữa, mau đi đi."
Halim xua tay. Asaman cười chế nhạo anh ta rồi rời đi, trên tay là một bình nước mật ong, một bình trà xanh cùng trái cây và đồ ăn nhẹ như nho khô, hạnh nhân, mận, táo, sanuma (bánh quy nướng bằng bột mì trộn yến mạch và đường), sangria (bánh hình ngôi sao), kaffudo (bột đậu nành chiên với đường, để nguội), kachi (súp bột mì vị kem), mứt sung....Tất cả đều được chuẩn bị cho những vị khách nữ.
Với các cô gái, trò chuyện trong nhà tắm nữ là thú vui lớn, đặc biệt là với các thiếu phụ. Chỉ ở đây họ mới có thể thoải mái phàn nàn về chồng mình, bởi họ đâu thể đến quán rượu vào ban đêm nhưng những người đàn ông.
Có hơn 500 nhà tắm công cộng ở kinh đô Ecbatana, 300 nhà ở cảng Gilan. Số lượng nhà tắm công cộng có thể đại diện cho quy mô của một thành phố.
Sau khi Asaman đi rồi, Halim đứng một mình trong hành lang, cố tình ho lớn.
"Ta không gây phiền phức cho ai, nên ta không làm gì sai cả. Asaman, cái cô này, chỉ giỏi giả vờ." Halim thực ra vẫn luôn thầm mến Asaman. Nghe những lời mỉa mai của cô, Halim thậm chí còn cảm thấy tự mãn. Anh ta lẩm bẩm trong khi ghé tai vào phần đầu hình nón loe của chiếc ống thông khí. Cuộc trò chuyện ban nãy còn mơ hồ nhưng giờ đã rõ hơn. Có bốn năm người đàn ông đang nói chuyện trong phòng tắm hơi.
"....Giọng lạ nhỉ."
Halim nghiêng đầu khó hiểu, nghĩ bụng có thể đây là người nước ngoài. Anh ta nghe họ nói bằng tiếng Pars được một lúc thì chợt, một câu nói chấn động lọt vào màng nhĩ.
"Hãy ca ngợi vinh quang của Xà vương Zahhak!"
Xà vương Zahhak?!
Với người Pars, cái tên này đồng nghĩa với tai họa.
"Nếu không nghe lời, Xà vương Zahhak sẽ bắt và nhốt xuống lòng đất, nghe chưa?" Hầu như cha mẹ người Pars nào cũng nói câu này để dọa con nhỏ mỗi khi nó khóc lóc mè nheo. Ngay cả những quan chức nhận hối lộ hay phường trộm cướp mà nghe đến tên Xà vương Zahhak cũng chột dạ nhìn quanh. Chẳng vì lý do gì, chỉ cần nghĩ đến cảnh bản thân bị những bàn tay của bóng tối nắm lấy, kéo xuống vực thẳm, nơi không bao giờ có thể thấy một tia sáng, nơi mà ngay cả các vị thần cũng làm ngơ, nỗi sợ hãi sẽ dâng lên từ tận đáy lòng.
Halim biết phen này mình nguy rồi, Asaman đã nói đúng.
"Nguy hiểm, nguy hiểm..."
Halim lẩm bẩm. Ngoài hành lang phòng tắm công cộng lúc này mát mẻ như đầu xuân nhưng trán anh ta lấm tấm đầy mồ hôi.
Sự thản nhiên thường ngày đã đi đâu mất, chỉ có những câu chuyện thần thoại đen tối trong tâm trí Halim. Anh ta muốn trốn mà bàn chân không thể cử động. Anh không muốn nghe nữa nhưng cuộc nói chuyện ở nahf tắm vẫn cứ chảy vào tai, như thể một thế lực vô hình đã trói chân anh ta lại, buộc anh ta lắng nghe.
"....Nếu một ngày, xà vương Zahhak thống trị thế giới, mặt trời sẽ bị lu mờ, vùa hè biến mất, chỉ còn màn đêm và mùa đông kéo dài cả nghìn năm...."
"Sắp đến ngày rồi. Chúng ta cần hàng vạn người. Đừng quên tập hợp ở núi Demavant."
"Ta biết rồi. Đây sẽ là mùa hè cuối cùng của nhân loại."
"Sắp đến lúc nộp đơn từ chức lên triều đình rồi. Phải cẩn thận kẻo bị nghi ngờ."
Cái gì, những người này là quan chức sao?
------------------------
Những quan chức ban đầu phục vụ vua Arslan nay đã phản bội và trở thành tay chân của Xà vương Zahhak? Hay từ đầu chúng đã là người của Zahhak, chỉ dùng danh tính giả để thâm nhập vào hoàng cung? Dù sao đi nữa, vua Arslan đang gặp nguy hiểm, và số phận của vương quốc Pars cũng lâm nguy.
Arslan đã đạt được rất nhiều thành tựu lớn nhưng cuộc sống thường ngày của chàng rất giản dị, được người dân yêu mến. Lòng trung thành và tinh thần trách nhiệm khiến Halim can đảm hơn. Sau khi thoát khỏi nỗi sợ hãi trước cái tên Xà vương Zahhak, anh ta cố điều chỉnh lại nhịp thở.
"Xà vương Zahhak sẽ ban cho chúng ta trẻ sơ sinh phải không?"
"Ồ, xem ra ngài chưa nếm thử món ngon đích thực rồi? Ngay sau khi đứa bé chào đời, tiếp xúc với thế giới bên ngoài, mùi vị sẽ nhạt mất. Phải mổ bụng thai phụ trước khi sinh nửa tháng, ăn trực tiếp bào thai mới là thơm ngon nhất. Mùi vị của thứ chất lỏng đặc sệt ấy...." Lời mô tả kinh dị này lọt vào tai Halim, khiến anh ta không kìm được mà phát ra một tiếng buồn nôn. Từ chiếc ống thoát khí phát ra một giọng nói tà ác, bởi âm thanh nhỏ xíu kia đã lọt vào phòng thông hơi.
"....Ai đó đang nghe lén cuộc trò chuyện của chúng ta!"
Theo sau tiếng nói u ám đó là tiếng đứng bật dậy. Halim hoảng sợ. Trong chốc lát, anh chỉ muốn đóng nắp ống thông hơi lại và chạy trốn nhưng tay chân mất kiểm soát. Chiếc nắp lẽ ra phải được khép lại nhẹ nhàng thì gây ra tiếng động lớn. Chân trái và chân phải anh ta vấp vào nhau, loạng choạng suýt ngã.
Cửa phòng xông hơi mở ra. Sức nóng lập tức ùa vào mặt Halim. Ba người đàn ông quấn khăn tắm nhìn anh ta bằng đôi mắt đỏ ngầu.
"....Sao ngươi dám nghe lén!'
Halim suýt nữa thì ngất khi nhìn thấy nửa dưới khuôn mật của các quan chức. Trên khuôn mặt ông ta không có miệng hay cằm của con người mà là một vật thể màu vang nhô ra phía trước, hơi phồng lên như một cái mỏ chim.
Những câu chuyện anh thường nghe bà kể lúc nhỏ lập tức hiện về trong tâm trí, thật đến nỗi nghe được cả tiếng lật từng trang sách.
"....Quỷ mặt chim!"
Tiếng hét ấy dường như của ai khác chứ không phải chính mình. Tất cả những bong bóng chứa nỗi sợ hãi đều nổ tung. Hai chân anh ta di chuyển không chủ đích, lùi lại năm sáu bước rồi quay người bỏ chạy. Không ngờ anh ta đụng phải một người phục vụ khác đang bưng một chồng gáo múc nước đi vào. Hai người cùng ngã ra sàn, những cái xô cũng lăn lông lốc khắp nơi. Halim lập tức bật dậy sau cú ngã, vung vẩy tay chân, vừa chạy vừa hét lớn.
Chủ nhà tắm công cộng liền chạy tơi, gã quỷ mặt chim đã lấy khăn che đi nửa dưới khuôn mặt và hét lên.
"Bắt lấy hắn!"
"Quý khách, Halim đã làm gì xúc phạm ngài ư...."
"Chúng ta là thẩm phán của triều đình, đang thảo luận về luật pháp quốc gia." Lũ quái vật dùng quyền lực đe dọa người đàn ông này.
"Ôi, thật quý hóa quá..."
"Tên đó là Halim à? Hắn nghe lén chúng ta bàn chuyện, hành vi rất nghiêm trọng. Ta sẽ đuổi theo hắn. Ai dám che giấu sẽ bị coi là đồng phạm." Sau khi khẳng định Halim là tội nhân, các quan chức lấy khăn che nửa dưới khuôn mặt, vội vàng thay quần áo và rời khỏi nhà tắm. May sao các nhà tắm công cộng thường thu tiền từ lúc vào cửa.
Vậy là người phục vụ nhà tắm tốt bụng Halim chẳng những không thể về nhà, mà còn không thể quay lại nơi làm việc. Sau khi bị các quan chức truy đuổi suốt nửa ngày, tới lúc mặt trời lặn, cuối cùng anh ta gặp được một chàng trai quý tộc trong chợ. Anh ta không biết người đó chính là đương kim quốc vương. Trong cảnh ngặt nghèo, anh đã xin được ban Phúc thánh.
Ngay khi Halim vừa dứt lời, một cơn gió đêm ùa vào mặt Arslan, khiến vị vua trẻ sực tỉnh.
"Cảm ơn vì đã báo tin. Anh không cần lo lắng về sự an toàn của mình nữa." Nói rồi Arslan ra lệnh cho Jaravant dẫn 100 binh lính đến nơi ở của tất cả các quan chức triều đình, kiểm tra xem ai vắng mặt.
"Thần tuân lệnh!"
Sau khi kính cẩn chào, vị tướng trẻ liền rời đi. Arslan nhìn theo bóng lưng Jaravant đi khuất, rồi quay sang người hầu cận.
"Ta nghĩ đám người đó trốn rồi Elam ạ. Lũ quỷ mặt chim khác với quỷ vượn có cánh, chúng có hình dáng gần giống con người và trí thông minh, đủ để che đậy danh tính."
"Tiếc là kiến thức của tôi còn hạn hẹp, vẫn phải nhờ ngài Narsus thôi."
"Đúng vậy, ta cũng không nghĩ ra phải làm gì. Lần nào cũng phải khiến thầy chúng ta lo lắng. Nhưng....liệu Narsus có nhà không?"
May thay vị quân sư của Arslan, thầy của Elam có nhà lúc này. Khi được triệu vào cung, trên chiếc áo xanh thêu của anh ta có vài vết sơn vàng.
"Hôm nay trời đẹp, lại còn là ngày nghỉ. Thần đã vẽ ba bức tranh tĩnh vật và định sẽ dâng lên bệ hạ."
Sau khi nghe chuyện về Halim, Narsus chỉ lặng lẽ nhấp một chén trà nguội.
"Bệ hạ nói phải, tất cả cả những gì chúng ta có thể làm bây giờ là theo dõi mà thôi, không nên có hành động nào khác. Tuy nhiên, nghĩ kỹ hơn thì thần có chút nghi ngờ đôj tin cậy của cuộc trò chuyện giữa những con quỷ đó."
Arslan bắt chéo tay, "Ý ngài là chúng cố ý để Halim nghe lén?"
"Đó cũng là một khả năng. Tung tin đồn nhảm, khiến đối phương hoang mang, đó là thuật cơ bản trong chiến lược quân sự." Narsus mỉm cười. Thấy nụ cười điềm tĩnh như như mọi ngày của vị quân sư, Arslan cũng bình tâm lại phần nào. Narsus chẳng những là cận thần, anh với Dariun còn là những người đồng đội đáng tin cậy nhất của Arslan kể từ khi bắt đầu chiến dịch dành lại kinh đô.
"Đối phương không phải người mà quỷ. Nếu có liên quan đến Xà vương Zahhak thì khó có thể dùng trí tuệ con người để hiểu suy nghĩ chúng." Trong khi Narsus nói, Jaravant đã quay lại. Mặt anh ta đỏ bừng bừng, cả người đổ mồ hôi vì chạy vội về báo cáo với Arslan rằng 5 vị quan chức kia đã mất tích. Sau đó, anh ta uống cạn ly nước đá do Elam mang tới.
"Xà vương Zahhak đã giết Vua thánh hiền Ramshid. Sau 1000 năm cai trị bạo tàn, một phần ba nhân loại bị giết dã man. Những con quỷ rắn trên vai hắn chuyên ăn não người. Trong ngàn năm ấy, khoảng 7 vạn người đã trở thành bữa ăn cho chúng." Narsus thuật lại. Dù Arslan, Elam, Jaravant đã nghe những truyền thuyết về Xà vương từ lâu nhưng vẫn không khỏi ớn lạnh.
"Thôi thì cứ đề phòng trước. Chuyện lần này không giống với chiến đấu chống giặc ngoại xâm, không biết ngài Narsus nghĩ sao?"
"Mùa đông đang đến, nếu không bổ sẵn củi hay may sẵn áo ấm chỉ vì thấy phiền thì kiểu gì cũng chết cóng. Tóm lại, chúng ta phải chuẩn bị trước, kể cả khi phải điều động quân đội."
"Chúng ta sẽ dẫn quân đến núi Demavant ư?
"Đúng vậy."
Narsus nhấp ngụm trà thứ hai, liếc nhìn Jaravant.
"Chúng ta còn chưa biết thân phận kẻ địch....Bỏ qua sự khiêu khích của chúng thực ra cũng là một cách. Sao không dùng cách này nhỉ?" Arslan thận trọng hỏi. Narsus đặt chén trà xuống.
"Elam, trả lời câu hỏi của bệ hạ đi."
Elam, người vừa mang bình nước đá đến, ngơ ngác khi nghe câu này. Anh đứng sững hồi lâu, tới tận khi nước đá lạnh làm bỏng tay mới vội vàng đặt nó xuống bàn. Thầy của anh luôn kiểm tra học trò mình bất cứ lúc nào, không thể mất cảnh giác được.
"Ví dụ như đúng là kẻ địch cố tình khiêu khích...." Elam đáp.
"Thì sao?"
"Kể cả chúng at bỏ qua sự khiêu khích đó, kẻ thù vẫn sẽ thực hiện bước tiếp theo và chúng ta không có thời gian giải quyết từng cái một, Nếu quá trình xử lý quá chậm, nó sẽ tạo điều kiện cho đối phương chuẩn bị hành động khác. Trong trường hợp đó, tốt hơn là nên tấn công trước, thậm chí còn phải tấn công mạnh mẽ."
"Đó là ý kiến của quân sư tương lai, thưa bệ hạ."
Nghe Narsus nói, Jaravant bật cười khanh khách.
"Cậu nhóc này tương lai tươi sáng lắm đấy, ngay cả tôi cũng thấy vậy. Vậy thưa ngài quân sư hiện tại, xin cho tôi hỏi, liệu có thể cho phép Jaravant tôi dẫn quân đến núi Demavant không?"
Narsus nghiêm túc lắc đầu.
"Tôi có người khác để ủy thác rồi. Nhiệm vụ của anh bây giờ là bảo vệ Halim, để anh ta sống trong nhà mình. Đâu mấy khi có được một thợ chà lưng lành nghề. Hãy tận hưởng tối nay đi nhé." Lúc này, họa sĩ cung đình đang ngồi cạnh Jaravant. Mùi mồ hôi toát ra từ cơ thể khổng lồ của anh chàng này khiến người ta choáng ngợp.