Chương 06 - Bài ca của mỹ nhân ngư
Độ dài 7,703 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-27 22:56:23
Tối 27 tháng tám, tôi và Hajikano cùng nhau đi lễ hội mùa hè Minagisa. Cô ấy mặc lại bộ yukata đã không được động tới kể từ ba năm trước, còn tôi có bộ jinbei rẻ tiền vừa mới mua gần đó. Hai đứa bước theo con đường nhỏ trong ánh chiều nhập nhoạng, tiếng guốc khua lạch cạch xen lẫn với bản hòa ca của đám ve sầu. Nhờ bộ yukata màu xanh thẫm, làn da trắng muốt của Hajikano trở nên nổi bật hơn bao giờ hết.
Càng đến gần nơi tổ chức lễ hội, thứ âm thanh ồn ã của nó càng rõ ràng hơn - tiếng trống taiko, tiếng sáo, tiếng kèn sho, tiếng loa phát thanh và tiếng mấy trăm con người trò chuyện. Một hàng dài những ô tô dừng ở ngoài trường tiểu học địa phương - nơi được dùng tạm làm bãi đậu xe, và ngay sau đó là quảng trường thị trấn.
Chúng tôi tới nơi đúng lúc bắn pháo hoa khai mạc lễ hội. Đó chỉ là vài phát pháo nhỏ, nhưng tất cả mọi người đồng loạt dừng cả lại và ngẩng lên, trầm trồ nhìn vào bông hoa đỏ giữa trời tan biến trong làn khói trắng. Ngay sau đó, cả khu hội chợ tràn ngập tiếng vỗ tay.
Ở chính giữa quảng trường là một giàn đèn lồng rực rỡ từng chuỗi dài sáng lóa. Các gian hàng nằm dọc theo hai cạnh dài của quảng trường, trong khi một cạnh ngắn của nó được bỏ trống làm lối vào ra. Ở cạnh ngắn phía bên kia, một sân khấu cực lớn được dựng lên và hàng trăm người đã ngồi chờ chực sẵn. Người đại diện tổ chức lễ hội đang ở trên sân khấu đọc lời chào mừng.
Tôi mở tờ rơi được phát ở lối vào và xem qua chương trình của tối hôm nay. Đúng như tôi nghĩ, tiết mục Mỹ nhân ngư của Agohama vẫn còn đó - họ đã tìm một nữ sinh khác thay thế. Cũng hiển nhiên mà, tôi nhủ thầm khi nhìn vào tấm ảnh của tân Hoa khôi Minagisa trên góc tờ rơi. Đó là một cô gái xinh đẹp, chắc chắn rồi, nhưng trông quá hoạt bát và tươi sáng để đóng vai chính trong tiết mục này.
Tất nhiên, có lẽ tôi nghĩ thế chỉ vì biết rằng vai diễn hợp với Chigusa đến mức nào, rằng nó đáng lẽ phải thuộc về cô ấy.
Chúng tôi ăn một chút usuyaki và yakisoba trước khi lại chỗ sân khấu. Các tiết mục mở đầu gồm có trình diễn iai của trẻ em, hòa tấu của ban nhạc trường học, nhảy buyo và minyou, vài màn xiếc và tung hứng. Một tiếng đồng hồ trôi qua trong chớp mắt. Khi người ta bắt đầu phần quay số trúng thưởng, hai đứa rời khỏi chỗ ngồi, chen qua đám đông và ngồi ở một cái bồn cây gần bãi đậu xe để nhìn ngắm lễ hội từ xa.
Ngay trước khi tiết mục của Hoa khôi Minagisa bắt đầu, tôi đột nhiên thấy cái gì đó lành lạnh rơi xuống mu bàn tay. Ban đầu tôi tưởng đó chỉ là tưởng tượng, nhưng Hajikano cũng ngẩng lên nhìn trời nên tôi hẳn không phải người duy nhất cảm thấy nó. Chưa đầy một phút sau, một cơn mưa bất thần ập đến. Nó không quá dữ dội nhưng cũng đủ để tạt người ta ướt sũng trong giây lát. Người dân cuống cuồng chạy đến trú ở các gian hàng, hoặc trung tâm thương mại gần đó, hoặc lao ra bãi đậu xe. Chẳng mấy chốc mà khu lễ hội đã gần như vắng ngắt. Loa phát thanh thông báo rằng chương trình còn lại của buổi tối sẽ bị hủy.
Hajikano và tôi trú mưa dưới phần mái nhô ra của trung tâm thương mại. Màn mưa mờ mờ phủ xuống làm nhòe đi ánh sáng từ những chiếc đèn lồng và đèn đường, nhuộm khung cảnh quảng trường trong một màu đỏ loang loáng. Mấy thanh niên vội vã chạy đi với tấm bạt căng trên đầu, người già bước chậm chạp với chiếc ô, lũ trẻ con nghịch ngợm nhảy nhót dưới mưa mà không buồn che chắn, những người biểu diễn cuống quýt thu dọn đồ đạc rời khỏi khán đài - giữa lúc tôi đang lơ đãng nhìn ngắm những con người lướt ngang qua, một giọng hát bỗng chạm đến tai tôi.
Bài ca của Mỹ nhân ngư.
Không phải từ phía sân khấu, mà là ở sát ngay bên cạnh.
Tôi quay sang, mắt tôi gặp mắt Hajikano. Cô ngừng hát và nở nụ cười bẽn lẽn. “Cơn mưa có vẻ sẽ rất lâu nữa mới tạnh nhỉ?”, cô ấy lên giọng bâng quơ, cố che đi sự bối rối của mình.
“Không sao đâu mà, cậu cứ hát tiếp đi.” Tôi nói.
Hajikano nhìn tôi, và gật đầu. Rồi cô tiếp tục hát.
Chất giọng dìu dịu của cô nhẹ nhàng thấm vào bầu không khí mát lạnh dưới mưa.
Đây là lần thứ ba tôi được nghe cô ấy hát ca khúc này.
Lần thứ hai là từ một tháng trước, trên nóc khách sạn Masukawa.
Còn lần đầu tiên là cách đây sáu năm - tại một ngôi đền bỏ hoang trên núi.
____________________________
Hồi đó, tôi vẫn chỉ gọi Hajikano là “lớp trưởng”.
Hè năm 1988 đã từng là mùa hè tồi tệ nhất của tôi, đồng thời cũng là mùa hè tuyệt vời nhất. Như đã nói trước đây, tháng bảy năm đó tôi mức chứng rối loạn thân nhiệt trầm trọng, và rơi vào tình trạng lạnh cóng đến mức phải co ro trong mấy lớp chăn bông ngay giữa ngày hè bốn mươi độ. Cái lạnh ấy ngày càng trở nên tệ hơn, ngày càng đảo tung cuộc sống thường nhật của tôi. Mẹ đưa tôi đến một bệnh viện đại học cách đây ba giờ ngồi xe buýt và tàu hỏa, sau đó bác sĩ đưa ra kết luận rằng đây là vấn đề sinh ra từ sự căng thẳng quá mức của não bộ (không ngạc nhiên cho lắm). Phía bệnh viện yêu cầu tôi phải lập tức nghỉ ngơi dài ngày và thường xuyên đến khám, và thế là kì nghỉ hè sớm của tôi đã bắt đầu.
Nó không giống như bất kì một mùa hè nào mà tôi từng biết. Có một khoảng trống hiện hữu giữa những gì tôi nhìn thấy và cảm thấy, khiến cho mọi thứ bằng cách nào đó trở nên có vẻ không thực. Mặc dù được nghỉ dài ngày như vậy, tôi chẳng có hứng thú ra ngoài chơi - cái lạnh quái gở đó thậm chí khiến tôi không thể tập trung nổi mà đọc sách nữa. Nhớ không nhầm thì hầu hết thời gian hồi đó được dành để xem một cuốn video lặp đi lặp lại. Tôi còn chẳng nhớ rõ nội dung của nó như thế nào. Hình như là một bộ phim nước ngoài, khá cổ.
Đúng một tuần kể từ ngày tôi nghỉ học, trong lúc đang nhìn chằm chằm vào màn hình TV trong phòng như thường lệ, tôi bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Tiếng gõ không quá mạnh, cũng không quá yếu, không gấp gáp mà cũng chẳng rời rạc, đến nỗi tự nó cũng có thể thành một nhịp điệu. Tôi chưa từng nghe thấy cách gõ cửa lịch sự như vậy trước đây. Và chắc chắn không phải mẹ tôi đang gõ.
“Ai đấy?” Tôi hỏi vọng ra. Cánh cửa từ từ hé mở, lộ ra cô bé với bộ váy trắng một mảnh hết sức dễ thương. Cô ấy đóng nhẹ cửa phòng lại mà không phát ra tiếng động nào, rồi quay sang cúi đầu chào tôi.
“Lớp trưởng?” Tôi ngồi phắt dậy, trong một thoáng hoàn toàn quên khuấy đi cái lạnh, “Cậu làm gì ở đây?”
“Đến chơi nhà bạn cùng lớp thôi.” Hajikano mỉm cười, thả chiếc ba lô xuống và ngồi cạnh tấm nệm của tôi. “Với cả, mang cho cậu tóm tắt bài vở trên trường.”
Tôi dáo dác nhìn quanh tình trạng phòng mình. Vốn chẳng có ma nào ghé thăm kể từ hồi lên cấp hai, tôi hẳn đã vứt thói quen dọn dẹp phòng ốc vào một xó xỉnh nào đấy trong đầu, và vì thế mà giờ nơi này thực sự chẳng khác nào ổ chuột. Giá mà cô ấy báo trước, ít ra mình có thể làm nó trông tươm tất hơn một tí… tôi thầm than vãn. Bản thân Yosuke Fukamachi còn tệ hơn cả cái phòng nữa. Đứng trước một Hajikano đầu tóc gọn gàng và ăn mặc lịch sự đủ đến để dự cả lễ tốt nghiệp, bộ dạng thảm hại của tôi với bộ đồ ngủ nhàu nát cùng cái áo khoác to bự đúng là không thể so sánh nổi.
Tôi chỉ biết chui lại vào dưới tấm chăn để tránh khỏi cái nhìn của cô ấy.
“Giáo viên nhờ cậu đến à?”
“Không, tớ tự ý đấy. Chủ yếu là tớ tò mò không biết Yosuke đang làm gì đó mà.”
Cô rút một tập giấy trong ba lô ra - một xấp gọn gàng những tờ cỡ B3 được gập lại - kiểm tra qua một lượt rồi đặt chúng lên bàn học. Sau đó cô ấy quay lại ngồi cạnh tôi lần nữa và nhìn tôi như kiểu “được rồi, bây giờ thì…”. Hẳn rồi, mình sắp bị tra hỏi đây, tôi nghĩ thầm. Tại sao cậu nghỉ học? Sao đang mùa hè mà cậu lại phải mặc áo khoác và đắp chăn thế? Bệnh gì mà kì vậy? Sao cậu lại mắc nó được?
Nhưng không. Trái với dự đoán của tôi, Hajikano không hỏi han gì cả. Cô ấy chỉ lấy tiếp từ trong cặp ra một cuốn vở ghi tên Yui Hajikano, sau đó bắt đầu giảng cho tôi những kiến thức quan trọng mà tôi đã bỏ lỡ từ tuần trước. Thế này là để làm gì chứ? Tôi tự hỏi, nhưng vẫn ngoan ngoãn lắng nghe bài giảng của cô ấy. Rốt cuộc là, chỉ sau vài phút, tôi đã hoàn toàn bị cuốn theo những gì cô đang nói. Dù sao thì đây cũng là kiến thức mới mẻ được nói ra từ miệng một con người đang sống - điều mà tôi thực sự cần sau liền mấy ngày giam mình trong phòng ngủ.
Sau khi xong việc, Hajikano cất cuốn vở vào lại ba lô, nói “Tớ sẽ còn quay lại” và ra về. Cô ấy vừa bước khỏi cửa nhà thì mẹ tôi đã lao vào phòng, mặt đầy khoái chí.
“Chà, không phải quá tuyệt khi được một cô bé xinh xắn đến thăm sao? Con nên trân trọng những người bạn thân như thế.”
“Cô ấy không phải bạn thân…” Tôi thở dài. “Chỉ vì cô ấy là lớp trưởng nên phải đối tốt với tất cả mọi người thôi.”
Lời của tôi hoàn toàn không phải kiểu lấp liếm cho đỡ ngượng mà mấy đứa cùng tuổi hay làm. Thật vậy, mối quan hệ giữa tôi với Hajikano hồi đó chắc chắn còn xa mới đến được hai chữ bạn thân. Năm lớp bốn tôi vô tình ngồi cạnh cô ấy, vì thế chúng tôi có nói chuyện với nhau đôi chút, nhưng kể từ tháng sáu khi được xếp lại chỗ thì chẳng còn gì nữa.
Tôi thực sự đã rất vui vì Hajikano đã đến thăm khi tôi ốm, và vì cô ấy đã bỏ công giảng lại những bài trên lớp mà tôi bỏ lỡ. Nhưng đồng thời, tôi hoàn toàn chắc chắn rằng hành động đó chỉ xuất phát từ lòng thương hại. Dù sao đi nữa, cô ấy là “lớp trưởng”, người có “nghĩa vụ” phải “tử tế” với một đứa “bạn cùng lớp tội nghiệp” kia mà. Chắc chắn trong mắt cô bé, tôi không là gì hơn ngoài một thằng yếu đuối đến đáng thương.
Ngày hôm sau, rồi ngày hôm sau nữa, Hajikano vẫn đều đặn đến gõ cửa phòng tôi. Ngồi xuống cạnh tôi. Giảng lại cho tôi những bài trên lớp. Ban đầu tôi vẫn tin chắc toàn bộ chỉ là nhiệm vụ của một lớp trưởng nhiệt tình, nhưng Hajikano còn đối tốt với tôi hơn thế nữa và làm mọi việc có thể để chăm sóc cho tôi - thế là niềm tin như đinh đóng cột ấy giờ chỉ còn là một câu tự thuyết phục bản thân. Tôi biết phần nào đó trong mình đã hoàn toàn đổ cô ấy. Nếu không khiến cho chính mình tin rằng Hajikano đang thương hại tôi, tôi chắc chắn sẽ phát điên vì cô ấy chỉ sau vài ngày mất.
Việc tôi đã tự nhận thức được điều đó là yêu có vẻ hơi kì quái với một học sinh tiểu học. Nếu là cách đây một hay hai tháng, có lẽ tôi cũng không thể nào gọi tên được cơn đau thắt mơ hồ hay cảm giác tim đập thình thịch trong lồng ngực này là gì. Nhưng kể từ khi nhận ra sự ghẻ lạnh của những người xung quanh, toàn bộ tâm trí của tôi đã được dồn vào thế giới nội tâm và vì thế mà có chút trưởng thành sớm hơn những đứa trẻ khác. Bất cứ khi nào ở một mình, tôi lại rà soát tất cả những cảm xúc vừa mới đi qua, phân tích chúng cặn kẽ, phân loại chúng vào cái tên thích hợp và đặt về vị trí cũ như những món hàng. Tình yêu của tôi được phát hiện như thế đấy.
Mỗi khi Hajikano kết thúc bài giảng của cô ấy và rời đi, tôi lại phải trải qua cảm giác cô đơn khủng khiếp. Điều khiến tôi sợ nhất lại tình cờ cũng chính là điều mà cô mong muốn: Hajikano thực sự đã xoa dịu lòng tôi. Giờ thì kể cả có tự tin rằng mọi chuyện cô ấy làm đều là vì thương hại đi chăng nữa, trái tim tôi vẫn run rẩy và loạn nhịp trước mỗi nụ cười, trước mỗi hành động dù nhỏ nhất của cô. Muốn được trao đổi với Hajikano nhiều hơn, muốn được cô ấy khen nhiều hơn, tôi bí mật đọc trước sách giáo khoa. Tôi hào hứng dọn dẹp phòng ốc để đợi cô ấy - và rồi lại xấu hổ với chính mình vì đã làm điều đó.
Cuối cùng, tôi quyết định phải tỏ ra cộc cằn với Hajikano. Ít nhất là để khỏa lấp đi sự hào hứng nhất thời mấy ngày qua. Để không phải cảm thấy cô đơn khi tôi khỏi bệnh, khi cô ấy chẳng còn bên tôi nữa.
Làm ơn, đừng cho tớ thấy những giấc mơ đẹp đẽ như vậy, tôi nhủ thầm. Dù sao tớ cũng không thể chạm tới nó, nên đừng ép tớ nhìn vào nó nữa. Ngừng chơi đùa với cảm xúc của người khác bằng cái vẻ đạo đức giả đó đi. Nhưng Hajikano đâu có biết điều đó. Cô ấy cầm tay tôi và mỉm cười với khuôn mặt ngây thơ, nói rằng “tay cậu lành lạnh thích thật đấy”, và vừa đùa giỡn vừa nằm xuống cạnh tôi để giảng giải rõ hơn về sơ đồ vẽ trong cuốn vở của cô ấy.
Từng ngày trôi qua, cơn ớn lạnh tưởng tượng của tôi càng lúc càng tồi tệ.
Ngày 13 tháng bảy được dành riêng cho việc tổng vệ sinh trường. Hôm nay không có tiết học nào cả, nên tôi đoán Hajikano sẽ không đến. Thế nhưng tôi vẫn không thể tránh khỏi cảm giác bồn chồn khi đồng hồ điểm bốn giờ chiều, và rồi tiếng gõ cửa vang lên như thường lệ.
Hajikano bước vào, với áo phông trắng và váy màu xanh lục nhạt. Học sinh phải mặc đồ thể dục khi lao động, thế nên hẳn là cô ấy vừa mới tạt qua nhà để thay quần áo trước khi đến đây, tôi thầm nghĩ.
“Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi, “Tớ tưởng hôm nay trên lớp không học gì chứ?”
“Ừ. Nhưng tớ vẫn đến.” Hajikano nở nụ cười tinh nghịch.
“Để làm gì cơ?”
“Thì đến chơi thôi~”
Cô ấy xà xuống ngồi cạnh tôi như thường lệ, mỉm cười dịu dàng với tôi mà không làm gì khác. Không thể chịu đựng sức sát thương quá lớn từ nụ cười ấy, tôi lật người lại trên nệm để quay mặt đi.
“Cậu đâu cần phải đến khi không có bài vở gì chứ.”
“Tớ đoán là nó lỡ thành thói quen mất rồi, hì hì. Với cả tớ lo cho cậu lắm, Yosuke.”
Tôi có thể chết vì vui sướng khi nghe những lời đó.
Và rồi, như muốn tự trừng phạt bản thân vì đã dám hạnh phúc… tôi buột miệng:
“Dối trá. Cậu chỉ đang giả vờ đối tốt với tôi để tự thỏa mãn bản thân thôi.”
Tôi đã nghĩ rằng cô ấy sẽ thẳng thừng gạt phăng nó đi.
Tôi đã nghĩ rằng cô ấy sẽ chẳng hề để tâm đến nó.
Tôi đã nghĩ rằng cô ấy sẽ bật cười và nói “Yosuke, cậu là đồ đần.”
Nhưng…
Hajikano chỉ im lặng.
Môi cô ấy run rẩy mím chặt, mắt chúng tôi giao nhau. Biểu cảm đau đớn trên gương mặt cô ấy như thể kẻ nào đó đang cầm một cây kim dài, từ từ cắm sâu vào lồng ngực của cô.
Phải vài giây sau Hajikano mới bừng tỉnh và chớp chớp mắt, rồi cố nặn ra một nụ cười. Một nụ cười méo mó vì buồn bã. Với thứ cảm xúc đang cố kìm nén đến cực hạn chỉ trực trào ra, cô nói nhỏ:
“...đau lắm đấy, Yosuke.”
Hajikano chậm chạp đứng lên, quay lưng về phía tôi, và rời khỏi phòng mà không một lời từ biệt.
Mấy phút đầu, tôi hoàn toàn không thấy chút cảm giác tội lỗi. Thậm chí tôi còn có hơi tự mãn vì đã đánh bay được cái khuôn mặt lúc nào cũng tươi cười của Hajikano và khiến cô ấy phải rút lui. Nhưng mỗi giây trôi qua, cảm giác đau đớn trong lồng ngực tôi càng lúc càng tồi tệ. Màn sương nặng nề ấy lan ra, như bao phủ cả căn phòng và hành hạ tâm trí tôi từ trong tới ngoài.
Có phải mình vừa phạm một sai lầm khủng khiếp?
Nếu Hajikano thực sự chơi đùa với tôi như một công cụ để tự thỏa mãn, thì cho dù tôi có nói gì đi nữa, cô ấy đều có thể dễ dàng bỏ qua bằng sự độ lượng đầy giả tạo. Những kẻ đạo đức giả như thế sẽ ngấm ngầm lên kế hoạch trả đũa khi cái “ý tốt” của chúng bị vạch trần. Chúng sẽ tiếp tục tỏ ra thánh thiện mà che mắt người kia, hòng giấu đi ý định thực sự của mình. Đó là cách mà chúng sẽ làm. Đặc biệt nếu đó lại là một người rất thông minh.
Nhưng Hajikano thực sự đã bị tổn thương. Tôi biết điều đó khi nhìn vào mắt cô.
Đó có phải bằng chứng cho việc cô ấy thực sự coi tôi như một người bạn?
Cô ấy hẳn phải cảm thấy bị phản bội ghê gớm, khi mà toàn bộ lòng tốt xuất phát từ thực tâm lại bị tôi thẳng thừng coi là giả tạo.
Nếu là như vậy… tôi quả thực vừa mới làm một điều quá tồi tệ với Hajikano, người đã cho tôi nhiều đến mức không thể đáp lại dù thế nào đi chăng nữa.
Suốt cả buổi chiều, rồi buổi tối, tôi vật vã trong đau khổ trên tấm futon.
...Nhất định phải xin lỗi cô ấy.
Hạ quyết tâm như vậy, trái tim tôi cuối cùng cũng tạm thời ổn định vào sáng hôm sau.
Ban đầu tôi định gọi điện, nhưng sau đó nghĩ rằng mình không thể nào truyền đạt hết cảm xúc của bản thân qua ống nghe được. Đến tầm trưa, tôi lấy chiếc áo khoác to bự mặc ra ngoài áo len rồi xuống nhà. Toàn thân tôi đầy mùi thuốc xịt côn trùng. Trong túi áo vẫn còn khăn giấy và vài cái kẹo từ mùa đông năm ngoái.
Đã được một thời gian kể từ lần cuối cùng tôi đi ra ngoài một mình. Còn bỏ đi cụm “một mình” thì là bảy ngày trước. Ở trong căn phòng ngủ ảm đạm và đơn điệu đó quá lâu, tâm trí tôi bị kích thích mãnh liệt bởi màu xanh của bầu trời và cây cối, bởi ánh sáng mặt trời và mùi cỏ dại, bởi tiếng chim hót và bài ca của lũ ve sầu - tất cả đều đem lại cảm giác hoài niệm kì lạ. Có phải thế giới vẫn luôn là một nơi rạng rỡ đến thế không? Tôi bất chợt thấy uổng phí thời gian khi giam mình trong phòng như vậy. Kéo lại vạt áo khoác như muốn thu mình vào sâu hơn nữa, tôi kéo mũ trùm đầu lên và bước theo lối đến trường.
Tôi cố ý chọn thời điểm dở dang như thế này chính là để tránh bị nhìn thấy hết mức có thể. Có vẻ nó đã hiệu quả, vì con đường gần trưa vắng ngắt và học sinh thì lại càng không có. Vậy là tôi có thể đến trường mà không bị ai để ý.
Có một vài người lớn, và họ nhìn một cách ngờ vực vào thằng nhóc tiểu học lang thang giờ này, nhưng may mắn là tôi không bị làm phiền gì nhiều hơn. Nhìn lên đồng hồ trong trường, tôi thấy đây đang là giờ ăn trưa.
Sau mấy ngày nghỉ, ngôi trường trong mắt tôi có vẻ trang trọng hơn trước kia. Tôi cúi gằm mặt xuống và bước nhanh tới phòng học của mình. Nhưng Hajikano không có ở đó khi tôi nhìn vào trong lớp. Một cách miễn cưỡng, tôi đi vào và hỏi vài đứa bạn đang trò chuyện ở gần bàn cô ấy. Mấy đứa nó có hơi ngờ vực về việc tôi đang xin nghỉ ốm mà lại có thể vác xác tới trường thế này, nhưng vẫn nói cho tôi biết rằng hôm nay Hajikano vắng mặt, vì cô ấy cảm thấy không khỏe.
Tôi thất vọng rời khỏi lớp. Trên đường ra ngoài, tôi chợt nhận ra có vài tấm ảnh mới được dán lên bảng tin của trường. Bởi lẽ đã cúi gằm mặt suốt quãng đường đi từ cổng vào đây, tôi hoàn toàn không để ý đến chúng.
Bức ảnh đầu tiên đập vào mắt tôi là ảnh của Hajikano. Không có gì ngạc nhiên cả - nó cực kì, cực kì đẹp, đến nỗi tôi ngây người ra mà nhìn chằm chằm vào nó một lúc lâu.
Loạt ảnh này dường như là từ một cuộc thi nhiếp ảnh được tổ chức thường niên vào tháng năm. Những tấm trưng bày ở đây được đánh số, và người ta có thể viết mã ảnh rồi bỏ vào phong bì để đăng kí mua một bản sao của tấm mình muốn. Tôi đoán có lẽ nó nhắm đến đối tượng là các phụ huynh học sinh.
Tôi đưa mắt tìm kiếm những bức ảnh khác của Hajikano, lần lượt từng cái một. Người chụp có lẽ đã cố gắng để lấy càng nhiều học sinh vào khung hình càng tốt mà không có sự thiên vị nào, nhưng rõ ràng là Hajikano luôn xuất hiện thường xuyên hơn bất kì ai khác. Không trách được, bởi dù sao thì nhiếp ảnh gia cũng là những người sẽ vô thức chọn lấy đối tượng để tạo ra tấm hình đẹp nhất. Tôi luôn nghĩ vậy khi thấy điều tương tự trên TV. Chẳng hạn, với một loạt ảnh về học đường, luôn tồn tại một nhóm ưu tiên nhất định bắt đầu từ “một học sinh nhìn tương đối trẻ con”, sau đó là “một nữ sinh xinh xắn” và tiếp đến là “một nam sinh nghiêm túc sắp sửa trả lời phỏng vấn”. Những đối tượng có khả năng gây khó chịu vô thức cho người xem sẽ được khéo léo đẩy ra khỏi khung hình.
Trong khi tìm xem có tấm nào chụp Hajikano gần hơn không, tôi tình cờ nhìn thấy chính mình. Đó còn không phải là một bức chụp trực tiếp - tôi chỉ vô tình lọt vào trong ảnh, hoàn toàn không hay biết một tí gì.
Đó thuần túy là một sự trùng hợp, một phép lạ. Và chắc chắn không phải theo nghĩa tốt. Khi tôi nói vậy, nó có nghĩa là tấm ảnh ấy khủng khiếp như thể chỉ có thể tạo ra bằng phép lạ vậy. Giống như giữa khung cảnh biển yên bình đột nhiên xuất hiện một con quái vật ngoi lên từ vùng nước tối.
Tất nhiên, bất cứ ai - dù đẹp đến đâu - cũng sẽ luôn có những tấm ảnh rơi vào “góc chết”. Đặc biệt là khi chụp khi đang di chuyển, bởi chẳng có người nào lại đẹp một cách hoàn hảo trong từng khoảnh khắc. Đôi khi sẽ có những bức ảnh khiến bạn trông như già đi 10-20 tuổi, hoặc nặng thêm 10-20 kí. Đối với tôi, điều đó xảy ra theo nghĩa tệ nhất, là cái bớt trên mặt đã phô ra hết mười phần sự xấu xí của nó để tạo ra bức ảnh tồi tệ nhất từng tồn tại. Thường thì những tấm như này lẽ ra đã bị lọc đi rồi, nhưng có lẽ người ta bỏ sót.
À, vậy ra người khác sẽ nhìn thấy mình như vậy.
Tôi nhìn những tấm ảnh của Hajikano, rồi lại nhìn tấm ảnh của tôi. Và tôi tự hỏi mình. Mày thực sự nghĩ rằng hai đứa có thể đứng ngang hàng hay sao? Mày thực sự nghĩ mày được phép vui vẻ bắt chuyện với cô ấy sao? Mày thực sự nghĩ mày xứng đáng để yêu cô ấy?
Câu trả lời cho tất cả những điều đó, chắc chắn là “Không.”
Hai đầu gối của tôi bắt đầu run lên. Mặt đất chao đảo dưới chân tôi. Tôi cố gắng xoay xở để khỏi ngã quỵ ngay tại chỗ, nhưng cơn ớn lạnh mà tôi tưởng đã giảm đi giờ đột ngột quay lại, giáng vào cơ thể tôi từng lằn roi buốt giá. Sự run rẩy lan ra toàn thân. Tôi không thở nổi.
Cứ thế, tôi sấp ngửa chạy về nhà như một con chó bị đuổi đánh, lao vào phòng, cuộn tròn dưới tấm futon và chờ cho cơn run ngừng lại. Tim tôi có cảm giác như thể nó vừa bị lấy ra mà đập liên hồi xuống đất, và toàn bộ sức lực dường như đã tụt về con số không. Mãi cho đến khi cảm thấy bớt lạnh hơn, tôi mới dám lết ra ngoài, uống một chút nước dưới bếp, trước khi quay về vùi mình trong chăn ấm.
Mình sẽ còn phải sống thế này đến khi nào nữa? Tôi thầm kêu lên khi úp mặt vào chiếc gối bông. Ngay cả khi cơn ớn lạnh này chấm dứt vào một ngày nào đó, thì cái bớt - căn bệnh thực sự của tôi, vấn đề căn bản của tôi - cũng sẽ không bao giờ được chữa lành. Có lẽ tôi sẽ phải tiếp tục lẩn tránh ánh nhìn của tất cả mọi người trên khắp thế gian, cho đến vĩnh viễn về sau.
Làm ơn.
Tôi cầu nguyện. Ai đó, ai cũng được, làm ơn cứu tôi thoát khỏi thứ này đi. Tôi thậm chí còn không biết mình đang cầu nguyện với ai. Điều đó thực sự không quan trọng. Chỉ cần có thể thực hiện điều ước của tôi, thì dù là thần linh, phù thủy, hay nàng tiên cá, gì cũng được, tôi chẳng bận tâm.
Và đó là khi tôi nhớ đến ngôi đền bị bỏ hoang trên ngọn đồi nọ.
Có một lời đồn mà tôi nghe được từ một vài đứa bạn ở lớp trước đây. Trên ngọn núi nhỏ ngoài ngoại ô thị trấn, có một ngôi đền đã bỏ hoang. Nếu như đến đó và cầu xin vào lúc nửa đêm, vị thần của ngôi đền sẽ hiện ra và thực hiện nó - một lời đồn nhảm nhí và nhàm chán. Không ai biết câu chuyện này bắt nguồn từ đâu, nhưng nó đã được rỉ tai nhau bởi học sinh của rất nhiều trường lân cận. Ngay cả một vài giáo viên trẻ cũng thừa nhận rằng họ có nghe về nó khi còn nhỏ. Vì vậy, lời đồn về ngôi đền bỏ hoang luôn là thứ thu hút sự quan tâm của phần lớn những đứa trẻ tại Minagisa - ngớ ngẩn, nhưng không có cách nào phru nhận.
Để mà nói cho chính xác thì, một học sinh lớp bốn tin tưởng sâu sắc vào câu chuyện về vị thần sẽ hiện ra và thực hiện điều ước cho mình… thực sự khá là khó tưởng tượng. Nhưng đầu óc tôi đã rệu rã đi sau một thời gian quá dài nhốt mình trong phòng, mệt mỏi tột độ vì bệnh tật, và vừa mới lãnh một cú giáng chí tử mà rơi xuống vực sâu tuyệt vọng, vậy nên tôi đang ở trong tình trạng sẽ nắm lấy bất cứ sợi dây nào xuất hiện trước cánh tay mình.
Tôi cứ nằm trong chăn mà suy nghĩ về tin đồn đó. Một tiếng sau, tôi ngồi dậy, mặc áo khoác và ra khỏi nhà. Lúc ấy là bốn giờ chiều.
Đường đi khá xa, và tôi phải bắt xe buýt để tới ngọn núi kia. May mắn là tôi biết sẽ phải xuống xe ở đâu. Trước đây tôi và mẹ đã từng nhiều lần ngồi xe buýt tới các bệnh viện trong nỗ lực chữa trị cái bớt trên mặt, và tôi vẫn còn nhớ là đã đi ngang qua nơi ấy.
Hai mươi phút ngồi đợi kể từ khi đến trạm, tôi lên xe. Khách duy nhất ở đây là một cặp vợ chồng già. Khi họ xuống ở điểm dừng cách đó hai bến, tôi là người duy nhất còn ngồi lại.
Chờ đợi xe tới nơi, tôi ngồi ở ghế sát cửa kính, nhìn những cánh đồng một màu đơn điệu lướt hai hai bên xe buýt. Con đường dường như đang trong tình trạng khá tệ, vì xe xóc nảy liên tục. Bác tài bực bội lẩm bẩm bằng một thứ giọng trầm đến nỗi tôi không nghe nổi. Chưa đến ba mươi phút kể từ khi lên xe, nhưng tôi có cảm giác như đã hai, ba giờ trôi qua vậy. Đôi khi có những ngôi nhà xa lạ đập vào mắt, và tôi giật mình lo sợ có khi nào mình đã nhớ nhầm số xe. Mãi cho đến khi ngọn núi xa xa lọt vào tầm mắt với bóng ngôi đền thấp thoáng, tôi mới thở phào nhẹ nhõm và nhấn nút báo xuống xe.
Nhìn tôi đặt cuống vé và tiền vé vào hộp, ánh mắt của mác tài đầy ngờ vực.
“Đi một mình hả nhóc?”
Tôi cố gắng giữ cho giọng mình thản nhiên: “Vâng. Cháu qua chơi nhà bà ngoại, mẹ cháu đã báo bà ra bến xe để đón…” Liếc về phía trạm dừng, tôi vờ thở dài, “Nhưng hình như bà vẫn chưa tới nơi. Hi vọng bà cháu không quên mất.”
“Nhóc đợi một mình ổn chứ hả?” Người tài xế, chừng năm mươi tuổi, giọng có chút lo âu.
“Không sao ạ. Nhà bà cháu gần đây lắm, kể cả tự đi bộ về cũng được.”
Bác tài gật đầu: “Được rồi, nhớ cẩn thận đấy.”
Khi xe buýt đã lăn bánh rời đi, tôi kéo chiếc mũ áo khoác sùm sụp lên đầu và đi về phía đền thờ. Tôi nhanh chóng tìm thấy tấm biển chỉ đường lên núi. Theo như những gì ghi ở đây, nó chỉ cao tầm khoảng 300 mét. Một ngọn đồi thì đúng hơn.
Con đường nhựa kết thúc ở chân núi và chuyển sang đường mòn đầy sỏi, hẹp đến nỗi chỉ đủ chỗ cho một người đi. Những nhánh cây mọc chĩa ngang ở khắp mọi nơi trên đường lên núi, thậm chí thi thoảng còn có cây đổ chắn hết cả lối đi. Những gốc cây bị bao phủ bởi đám nấm mốc dày màu xanh đỏ kì dị, và tôi cẩn thận trèo qua mà tránh chạm vào chúng.
Thế rồi khi tôi đã đi được nửa đường, trời bất chợt đổ mưa. Không có một dấu hiệu báo trước nào cả. Ban đầu thì các tán lá dày đặc phía trên che chắn như những chiếc ô, nên chỉ có tiếng mưa rào rào phía trên mà tôi không bị ướt nhiều cho lắm. Nhưng đến khi cơn mưa càng lúc càng nặng hạt hơn, tầng rừng cuối cùng trút xuống tôi toàn bộ số nước đã tích trữ tới giờ.
Đến tận đây rồi mà phải quay lại thì phiền quá, nên tôi quyết định tăng tốc và chạy lên núi. Thế nhưng con đường ngoằn ngoèo này dài hơn tôi dự đoán rất nhiều - ban đầu tôi đã tưởng nó là đường thẳng. Đến khi tới được chiếc cổng torii ở lối vào đền, chiếc áo khoác bằng vải Melton của tôi đã ngấm nước nhiều tới nỗi nó nặng gấp đôi bình thường.
Tôi đẩy cánh cửa lớn bằng cả hai tay và trú vào khu nhà chính của ngôi đền bỏ hoang. Ngay khi tôi vừa đặt cơ thể rệu rã xuống sàn và thả lỏng, cơn ớn lạnh lập tức kéo đến. Tôi cởi chiếc áo khoác sũng nước của mình ra, tựa lưng vào tường và run rẩy ôm đầu gối. Chắc chắn là tôi sẽ không thể chịu được tới quá nửa đêm trong tình trạng này, nhưng mặt khác, cuốc bộ xuống núi và chờ một chuyến xe buýt về nhà cũng sẽ chẳng khác gì tự tử.
Hòa lẫn với tiếng mưa rào rào trên mái, tôi nghe âm thanh tí tách phát ra từ đây đó trong nhà. Dường như có một số chỗ đã bị dột. Những giọt nước ấy dần dần làm cho toàn bộ sàn nhà bị ướt và bào mòn thân nhiệt của tôi, từng chút từng chút một. Cơn run rẩy của tôi càng lúc càng tệ hơn, vì mặt sàn ướt lạnh ngắt và vì cảm giác bất lực hiện tại. Răng tôi đánh bò cạp, chân tay lạnh cứng tới tận xương, và tôi có cảm giác rất rõ ràng rằng mình sắp sửa chết rét ngay giữa một đêm tháng bảy.
Lẽ ra mình không nên đến nơi này, tôi thầm hối hận. Nhưng đã quá muộn rồi. Tôi chưa hề nói cho bất kì ai biết tôi chuẩn bị đi đâu. Sẽ không có người nào đến cứu cả. Bác tài xế xe buýt hẳn đang nghĩ rằng ngay lúc này tôi đã về đến nhà bà, có một bữa tối nóng sốt trong khung cảnh gia đình đầm ấm.
Đó mà là sự thật thì tuyệt biết bao.
Ba hay bốn tiếng đồng hồ đã trôi qua. Tôi nhận thấy tiếng mưa đã ngớt. Bên ngoài không còn rào rào nữa, chỉ có tiếng nước nhỏ lách tách từ chiếc lá này qua chiếc lá khác trong rừng. Trời bây giờ tối mịt, và ở cái chỗ không đèn đóm này tôi thậm chí còn chẳng nhìn nổi lòng bàn tay mình nữa.
Sức chịu đựng của tôi đã bị đẩy tới giới hạn rồi. Có cảm giác rằng, ngay lúc này tôi yếu đến độ cho dù chỉ một bước chân cũng không nhấc nổi. Các giác quan đều trở nên mù mờ như bị phủ một lớp sương mù, và đầu óc tôi bắt đầu quên mất mình là ai hay tại sao mình lại ở đây. Điều duy nhất còn hiển hiện rõ ràng, là cơn ớn lạnh và cơ thể đang run lên từng đợt.
Thế rồi, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa. Đó là một âm thanh quen thuộc, dù tôi chẳng thể nhớ nổi mình đã nghe nó khi nào và ở đâu. Một lát sau, cánh cửa trượt được mở ra và luồng sáng chói lóa đập thẳng vào mắt tôi. Tôi suýt nữa thì hét lên vì sợ hãi, nhưng đến khi nhận ra đó chỉ là một người cầm đèn pin vừa bước vào, cơ thể tôi cuối cùng cũng thả lỏng.
“Hóa ra cậu đến đây thật.”
Đó là giọng của một cô bé. Giọng nói đó… cũng có vẻ quen thuộc. Tôi cố gắng ngóc đầu dậy để nhìn mặt cô ấy, nhưng bị cái đèn pin rọi thẳng vào khiến mắt tôi không mở nổi.
Cô bé gập chiếc ô của mình lại, rũ nước, sau đó đi về phía tôi, hơi khom người và hướng đèn pin xuống sàn nhà. Cuối cùng, tôi cũng nhận ra khuôn mặt của người vừa tới.
“Yosuke.” Hajikano nhẹ nhàng nói. “Là tớ đây mà.”
Tôi dụi mắt. Tại sao Hajikano lại ở đây? Làm sao mà cô ấy biết tôi ở đây? Không, ngay từ đầu tại sao cô ấy lại đi tìm tôi chứ? Không phải hôm nay cô ấy còn xin nghỉ ở trường vì bị ốm sao? Có phải cô ấy vừa mới leo lên ngọn núi này một mình không? Vào giữa một đêm mưa gió như thế?
Tôi thậm chí không còn sức để mở miệng hỏi những câu đó. Thấy tình trạng rũ như tàu tá của tôi, Hajikano đặt tay lên vai tôi và nói “Đợi ở đây nhé, tớ sẽ gọi người tới giúp” sau đó rời đi với chiếc ô và cái đèn pin.
Theo phản xạ, tôi dùng hết sức bình sinh vươn người theo sau Hajikano và nắm lấy tay cô ấy. Cố giữ cho hàm răng va lập cập nằm yên, tôi run rẩy nói ra hai từ duy nhất.
“Lạnh.. quá...”
Hajikano quay lại nhìn tôi, mắt thoáng chút ngập ngừng. Cô ấy đang phân vân nên bỏ tay tôi ra và chạy đi gọi người lớn, hay ở lại đây với tôi.
Cuối cùng, cô đã chọn cái sau. Đặt ô và đèn pin xuống sàn, cô ấy nắm lấy tay tôi rồi ngồi xuống. Nhẹ nhõm khi thấy điều đó, tôi gần như đổ gục ra sàn.
“Cậu lạnh lắm à?” Cô hỏi lại.
Tôi gật đầu, và cô ấy vòng tay qua sau lưng tôi, kéo cơ thể hai đứa sát vào nhau.
“Ngồi yên.” Dịu dàng vỗ nhẹ lưng tôi, Hajikano thì thầm, “Cậu sẽ ấm lên thôi.”
Ban đầu, cơ thể ướt sũng của cô ấy thực sự lạnh khủng khiếp. Dừng lại đi, tôi muốn hét lên, cậu định làm tớ chết rét nhanh hơn à? Nhưng rồi chẳng mấy chốc cái lạnh đó mờ dần, từng chút một. Tôi bắt đầu cảm thấy hơi ấm từ làn da cô ấy. Những bắp thịt bị đông cứng của tôi dần dần buông lỏng vì sức nóng, và các giác quan tê liệt của tôi dần rõ ràng trở lại. Sau mấy tiếng đồng hồ co ro trong giá buốt, cuối cùng cơ thể tôi cũng có lại nhiệt độ của một con người.
“Không sao, không sao đâu.” Trong khi vẫn ôm lấy tôi, Hajikano thủ thỉ liên tục, “Cậu sẽ ổn thôi mà.”
Mỗi lần cô ấy nói vậy, tôi lại cảm thấy một sự an tâm mạnh mẽ dâng lên trong tâm trí. Phải rồi, đây là Hajikano. Nếu cô ấy nói chuyện sẽ ổn, thì nó chắc chắn sẽ ổn thôi - từ tận tâm can, tôi thực lòng tin rằng như thế.
Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua nữa.
Đột nhiên, tôi nhận ra một điều lạ. Cảm giác nóng lạnh của tôi đã trở lại bình thường. Tôi nhận ra cái oi bức của một đêm hè tháng bảy. Vẫn hơi rét một tí vì quần áo ướt, nhưng chỉ có thế thôi.
Dường như nhận ra cơn run của tôi đã ngừng lại, Hajikano hỏi: “Cậu hết lạnh rồi à?”
Tôi không thấy lạnh nữa thật. Thậm chí tôi còn đổ mồ hôi một chút. Thế nhưng tôi nói “Ừm, vẫn hơi hơi.” Tôi muốn níu kéo hơi ấm của cô ấy lâu hơn, dù chỉ là vài phút.
“A… đừng lo, cậu sẽ sớm ấm lên thôi.”
Hajikano vuốt nhẹ má tôi. Tôi không biết cô ấy có nhận ra lời nói dối đó hay không.
Sau khi đã được sưởi ấm hoàn toàn, tôi nhẹ nhàng buông tay ra khỏi người cô.
“Lớp trưởng.” Tôi rụt rè.
“Sao vậy?”
“Xin lỗi.”
Với một từ đó, cô ấy đã đoán ra được những gì tôi đang cố nói.
“Đừng lo, không sao đâu mà.” Cô mỉm cười vui vẻ, “Ý tớ là, ừ, đúng ra tớ vẫn còn để bụng đấy. Cậu thực sự đã làm tớ tổn thương, Yosuke. Chắc chắn chắc chắn là như thế luôn. Nhưng mà tớ sẽ tha thứ cho cậu.”
“...Cảm ơn.”
Hajikano đưa tay xoa nhẹ đầu tôi.
“Cậu biết không, Yosuke. Tớ đến thăm cậu mỗi ngày là vì muốn cậu chóng đi học lại.”
“Nhưng... tại sao?”
“Cậu đoán xem?” Cô ấy hơi cúi xuống, “Ừm, Yosuke, cậu có thể không nhận ra đâu, nhưng tớ rất thích nói chuyện với cậu. Tớ thích cái cách cậu chỉ lắng nghe tớ mà không nói gì, tớ thích cái cách cậu chỉ nói mà không cần tớ phải nói gì. Và tớ cũng thích cái cách bọn mình cùng yên lặng ngồi cạnh nhau mà không ai nói lời nào nữa. Khi cậu nghỉ học, tớ thực sự đã rất cô đơn.”
Hajikano dừng lại, hít một hơi, rồi cúi đầu lí nhí.
“Vì vậy, đừng biến mất… Tớ đã lo lắm đấy, cậu biết không?”
“...Ừ, tớ xin lỗi.”
Tôi nói ra những lời đó từ tận đáy lòng mình.
Chúng tôi thử ra ngoài, nhưng trời cũng chẳng sáng hơn trong nhà là bao. Mưa tạnh, mây tan, trăng cũng đã lên, có điều giờ mà xuống núi thì hơi nguy hiểm. Hơn nữa kể cả có xuống được, thì xe buýt cũng phải sáng mai mới đến. Cuối cùng hai đứa quyết định ở lại qua đêm tại ngôi đền bỏ hoang.
Cái đêm ấy, cho tới tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ. Hajikano ngồi bên cạnh tôi, chỉ tay lên bầu trời đen, và dạy cho tôi về tên của những ngôi sang. Tôi thậm chí còn chẳng hiểu lấy một nửa những gì cô ấy đang giải thích, nhưng cứ mỗi lần cô hào hứng giới thiệu một cái tên, tôi lại có cảm giác như mình vừa nhận lấy năng lượng từ một câu thần chú đầy màu nhiệm.
“Phải rồi, hôm nay cậu bị ốm à?” Tôi hỏi. “Cậu có đang ổn không đấy?”
“Không sao đâu. Vụ thấy không khỏe là nói dối đấy, tớ chỉ là quá buồn vì bị cậu phũ thôi.”
“Eh… xin lỗi.”
“May cho cậu là tớ tha đấy.” Hajikano cười tít mắt, “...Nói chung là, tớ đang ở trong phòng thì bố mẹ cậu gọi đến nhà tớ, hỏi xem liệu cậu có tới chỗ tớ không. Thế nên tớ biết cậu đã rời khỏi nhà đi đâu đó.”
“Nhưng làm sao cậu tìm được tớ ở đây?”
“Cậu có nhớ hồi mới đi học lại sau kì nghỉ xuân, tớ đã nhắc đến ngôi đền này không?”
Tôi bất giác ồ lên một tiếng: “Ra là thế…”
“Tớ vẫn cứ nghĩ là cậu không ưa gì mấy câu chuyện phi thực tế, nên là hôm đó tớ đã rất ngạc nhiên khi cậu tỏ ra quan tâm đến chuyện của ngôi đền. Thế rồi khi biết tin cậu mất tích, đây tự dưng là nơi đầu tiên mà tớ nghĩ ra.”
“Nhỡ cậu đến tận đây mà không thấy tớ thì sao?”
“Vây tớ sẽ đợi tới nửa đêm, sau đó ước “Con mong rằng Yosuke vẫn ổn”.”
Hai đứa ngồi im lặng thêm một lúc, rồi Hajikano đứng dậy và bắt đầu ngâm nga. Một giai điệu man mác buồn, nhưng cũng có gì đó thật là hoài niệm. Bài ca của mỹ nhân ngư. Tôi chưa bao giờ nghe cô ấy hát trước đây, vậy nên giọng ca tuyệt đẹp ấy thực sự làm tôi không thốt nên lời. Tiếng hát của Hajikano như một dòng nước đưa lên từ miệng giếng - mềm mại, mát lành và trong vắt. Khi bài hát kết thúc, tôi vỗ tay và làm cô ấy bật cười.
Chúng tôi lại ngồi xuống cạnh nhau, nhìn chằm chằm lên bầu trời đêm mà không ai nói lời nào cả. Cứ thế một lúc lâu cho tới khi Hajikano lên tiếng: “Mình vào trong thôi.” Hai đứa đi vào ngôi đền, nằm xuống sàn, tán gẫu vài chuyện vô nghĩa, và ánh sáng từ chiếc đèn pin cô ấy mang theo bắt đầu yếu dần đi. Không lâu sau, pin hết, gian phòng bị nhấn chìm trong bóng đêm. Tôi và Hajikano nắm lấy tay nhau mà không biết ai là người đã chủ động đưa tay ra trước, và cùng nhau chờ đợi bình minh đến.
Sau ngày hôm ấy, thế giới của tôi đã hoàn toàn thay đổi. Một thế giới được tạo nên từ “tôi và mọi thứ khác” đã trở thành thế giới của “tôi, Hajikano và mọi thứ khác”. Chỉ bằng sự tồn tại của mình, cô ấy, người con gái như ánh nắng mai, đã cho tôi bằng chứng rằng thế giới này là một nơi đáng sống.
Cứ việc gọi là một đứa ngây thơ và quá khích, chẳng khác nào con chim non mới sinh nghĩ thứ đầu tiên nhìn thấy là mẹ nó. Nhìn từ bên ngoài, bất cứ ai cũng có thể thấy tôi là một kẻ ngốc vĩnh viễn bị giam cầm trong những ký ức ngày xưa. Nhưng tại sao tôi phải quan tâm người khác nói gì?
Nếu những ký ức này là một nhà tù, vậy tôi sẽ sẵn lòng trở thành một tù nhân hạnh phúc cho đến chết.