Chương 04 - Nhật Ký Của Klein
Độ dài 7,332 từ - Lần cập nhật cuối: 2021-11-27 20:48:34
Trans: Kouji
✫ ✫ ✫
Phải mất nửa tiếng nghỉ ngơi, Klein mới lấy lại tinh thần. Khi ấy, anh phát hiện ra trên mu bàn tay phải có thêm bốn chấm đen, vừa vặn tạo thành một hình vuông nhỏ.
Bốn chấm đen này chuyển từ đậm sang nhạt rồi nhanh chóng biến mất. Song Klein biết rõ chúng vẫn đang ẩn giấu trong cơ thể mình, chờ tới dịp được đánh thức.
“Bốn chấm, hình vuông, chẳng lẽ nó tương ứng với bốn phần món chính được đặt ở bốn góc? Sau này mình không cần chuẩn bị món chính nữa, có thể trực tiếp sử dụng bộ pháp và đọc chú văn?” Klein mơ hồ có một suy đoán.
Điều này có vẻ không tồi chút nào. Nhưng cơ thể bỗng có thêm thứ có nguồn gốc kỳ quái như thế này thật khiến người khó mà yên tâm.
Suy nghĩ về việc Phương Thuật ở thế giới ban đầu lại có tác dụng ở đây, về sự xuyên không lạ thường trong lúc mình ngủ, về thế giới sương xám bí ẩn, ảo giác và không rõ nó tượng trưng cho điều gì, về vô số tiếng thì thào khiến người ta điên cuồng quanh quẩn trong nghi lễ khiến người ở giữa tiết trời tháng sáu như Klein cũng phải rùng mình phát lạnh.
Anh từng nghe rằng: “Cảm xúc lâu đời nhất và mãnh liệt nhất của loài người là nỗi sợ hãi, mà nỗi sợ hãi lớn nhất và mãnh liệt nhất là nỗi sợ những điều chưa biết.” Lúc này đây, anh đã cảm nhận được nỗi sợ những điều chưa biết ấy một cách sâu sắc.
Anh vừa không có cách nào áp chế cảm giác thôi thúc mãnh liệt muốn được tiếp xúc với thế giới bí ẩn và lý giải những điều chưa biết; lại vừa có suy nghĩ trốn tránh bằng cách vùi đầu và giả vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Ánh nắng chói chang ngoài cửa sổ phủ lên bàn làm việc một lớp “bụi vàng”. Klein dán mắt vào đó, như thể đang chạm vào một dấu vết của sự ấm áp và hy vọng.
Khi anh hơi thả lỏng ra một chút, cảm giác kiệt sức lập tức ùa đến như thủy triều dâng.
Một đêm không ngủ cùng việc tiêu hao vừa rồi khiến mí mắt anh nặng trĩu như chì, không thể không rũ xuống.
Klein lắc lắc đầu, vươn tay chống lên mép bàn. Anh không để ý tới việc thu dọn số bánh mì đen còn đặt ở bốn góc phòng, mà thất tha thất thểu đi về phía cái giường hai tầng. Khi đầu chạm vào gối, Klein đã chìm vào giấc ngủ say.
Ọc Ọc Ọc!
Con đói đã đánh thức Klein. Anh mở to mắt với một tinh thần sảng khoái hơn hẳn.
“Chỉ có đầu còn hơi đau.” Anh xoa trán, xoay người ngồi dậy, cảm thấy mình bây giờ có thể ăn cả một con trâu. Vừa vuốt nếp uốn trên quần áo, anh vừa trở lại bàn học, cầm lấy chiếc đồng hồ bỏ túi có hoa văn dây leo bạc. Cách! Cái nắp bật ra, kim giây tích tắc.
“Mười hai giờ ba mươi. Mình đã ngủ hơn ba tiếng.” Klein nuốt nước bọt, bỏ chiếc đồng hồ vào túi áo sơ mi vải lanh.
Tại Đại lục Bắc, một ngày cũng được chia thành hai mươi tư giờ, một giờ sáu mươi phút, mỗi phút sáu mươi giây. Còn độ dài của mỗi giây có giống thế giới ban đầu hay không thì Klein không rõ.
Với anh lúc này, ngay cả những từ như thần bí học, nghi lễ và thế giới sương xám cũng không thể tiến vào đầu anh chút nào. Chuyện quan trọng nhất bây giờ là đồ ăn! Ăn no mới có thể nghĩ ra biện pháp! Mới có thể làm việc được!
Không do dự, Klein nhặt những chiếc bánh mì đen đặt bốn góc phòng và phủi hết bụi dính trên đó, tính dùng một cái trong đó làm bữa trưa.
Bởi quê quán trên thế giới ban đầu có tập tục ăn đồ đã cúng, mà bốn chiếc bánh mì lúa mạch đen này trông không bị biến chất, cùng tình huống trong túi chỉ còn 5 đồng Penny, anh quyết định cần phải tiết kiệm chút. Đương nhiên, ký ức và nếp sống của Klein gốc cũng có ảnh hưởng phần nào.
Do khí ga quá đắt, dùng chiếu sáng thôi cũng khiến lòng xót của, anh quyet dinh kéo bếp lò ra, bỏ thêm chút than đá, rồi đi đi lại lại để chờ nước sôi.
Loại bánh mì lúa mạch đen kia mà ăn khô thì nghẹn là cái chắc!
“Chậc, chẳng lẽ mình phải sống cuộc đời sáng ăn bánh mì đen, trưa ăn bánh mì đen, tối mới được ăn thịt sao… Không, nếu không phải do Melissa cân nhắc tới việc mình sắp phải đi phỏng vấn, thì có khi một tuần chỉ được ăn thịt hai lần ấy chứ…” Kẻ không có việc gì để làm, lại không thể suy nghĩ được những điều nghiêm túc vì đói mang tên Klein nhìn quanh phòng.
Nghĩ tới một pound thịt cừu non, ánh mắt hướng về phía chạn bát của anh tựa hồ có chút xanh lét.
“Không, không được. Mình phải chờ Melissa về ăn cùng.” Klein bỗng lắc đầu, bác bỏ ý nghĩ cắt một nửa ra nấu trước.
Dẫu là một người độc thân phiêu bạt nơi đô thành và thường xuyên dùng bữa ở bên ngoài, song anh vẫn rèn luyện được kỹ năng nấu nướng cơ bản. Ngon thì chưa tới, nhưng cũng đủ để ăn.
Klein xoay người, định ngoảnh mặt làm ngơ, chợt nhớ ra sáng nay mình còn mua cả đậu hà lan và khoai tây!
“Khoai tây!” Klein lập tức vồ lấy ý tưởng vừa xuất hiện. Anh xoay người tựa như một cơn lốc, vọt tới bên tủ bát, lấy ra hai củ trong số khoai ít ỏi.
Đầu tiên, anh rửa sạch vỏ khoai ở nhà vệ sinh chung rồi cho vào nồi nước để luộc. Một lát sau, anh cầm hộp đựng gia vị trong tủ bát ra, mở nắp, rắc một ít hạt muối thô đã ố vàng vào trong nước.
Sau vài phút kiên nhẫn chờ đợi, Klein nhấc ấm, rót “nước canh” vào mấy cái cốc và bát lớn, rồi gắp hai củ khoai tây ra bằng nĩa và đặt chúng trên bàn.
Phù! Anh lột một tí ra và thổi hơi. Mùi khoai tây nấu chín từ từ lan tỏa, khơi gợi cảm giác thèm ăn.
Nước bọt ứa ra một cách điên cuồng. Klein không quan tâm mình mới lột được một nửa, cũng không để ý rằng khoai tây vẫn còn nóng hổi khi há miệng cắn một miếng to.
Bột! Thơm! Ngọt! Nội tâm Klein tràn đầy sự xúc động. Anh ngấu nghiến hai củ khoai như hổ đói, thậm chí còn ăn cả một chút vỏ.
Cuối cùng, anh mới bưng tô lên, hớp một ngụm canh, dùng vị mặn nhàn nhạt cuốn trôi cảm giác khô khốc trong miệng.
“Khi còn bé, mình rất thích ăn như thế này…” Klein thầm cảm khái. Anh xé một miếng bánh mì đen rồi ngâm vào canh cho mềm.
Có lẽ do nghi lễ trước đó đã tiêu hao quá nhiều sức lực, Klein ăn sạch hai ổ bánh mì nặng cả pound.
Sau khi uống hết canh và thu dọn sạch sẽ, Klein cảm thấy mình hoàn toàn sống lại, lại được thể nghiệm niềm vui làm người và tận hưởng ánh mặt trời xán lạn.
Anh ngồi về bàn học, bắt đầu suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo:
“Không thể trốn tránh. Mình nhất định phải tìm cách tiếp xúc với lĩnh vực thần bí và trở thành một Kẻ Phi Phàm trong miệng ‘Chính Nghĩa’ và ‘Người Treo Ngược’.
“Mình phải vượt qua nỗi sợ gây ra bởi những điều chưa biết.
“Cách duy nhất lúc này là chờ lần tụ họp tiếp theo, xem có thể bàng thính được phương pháp điều chế ma dược ‘Khán Giả’ hoặc những kiến thức thần bí khác hay không.
“Còn bốn ngày nữa mới đến thứ Hai. Trước đó, mình phải nhìn thẳng vào vấn đề của nguyên chủ. Tại sao cậu ta lại tự sát? Chuyện gì đã xảy đến với cậu ta?..”
Klein nhặt cuốn sổ để ngỏ trên bàn lên với ý nghĩ tìm kiếm manh mối có thể bổ sung cho những phần ký ức không trọn vẹn. Rất dễ nhận ra rằng, nguyên chủ có thói quen ghi chép và sở thích viết nhật ký.
Klein biết rõ điều đó, bởi trong ngăn kéo dưới ở phía bên phải bàn đọc sách chất đầy những cuốn nhật ký được viết kín. Quyển nhật ký này đã được sử dụng từ ngày 10 tháng 5. Nội dung phần đầu chủ yếu liên quan tới trường học, giáo viên cố vấn và tri thức:
Ngày 12 tháng 5, thầy Azik đề cập rằng ngôn ngữ phổ biến của đế quốc Bailang ở Đại lục Nam cũng bắt nguồn từ tiếng Feysac cổ, là một chi nhánh của tiếng Người Khổng Lồ. Tại sao lại như vậy? Chẳng lẽ tất cả các sinh vật có linh tính đã từng có chung một ngôn ngữ ư? Không. Điều này chắc chắn là sai. Ngay cả trong “Sách khải huyền của Đêm” hay “Sách của Gió Bão” đều nói, trong thời đại cực kỳ xa xưa, Người Khổng Lồ không phải chúa tể duy nhất ở đại lục. Còn có Dị chủng, Tinh linh và Cự long. Được rồi, đây đều là truyền thuyết, thần thoại mà thôi.
Ngày 16 tháng 5, phó giáo sư thâm niên Cohen và thầy Azik đã thảo luận về tính tất yếu của Thời đại Hơi nước. Theo thầy Azik, điều này mang tính ngẫu nhiên. Nếu không có sự xuất hiện đột nhiên của đại đế Roselle, có lẽ Đại lục Bắc vẫn còn trong thời đại vũ khí lạnh như Đại lục Nam. Thầy hướng dẫn lại nói thầy Azik đang quá mức đề cao vai trò của cá nhân. Ông tin rằng theo sự phát triển của thời đại, dù không có đại đế Roselle thì cũng sẽ có đại đế Robert. Tóm tại, Thời đại Hơi nước có thể đến trễ hơn, nhưng nó chắc chắn sẽ tới. Cuộc tranh luận giữ họ không có nghĩa lý gì với tôi. Điều tôi thích là khám phá những điều mới mẻ và khôi phục lại lịch sử bị bao phủ bởi lớp sương mờ. Có lẽ tôi thích hợp với khoa Khảo cổ hơn là khoa Lịch sử.
Ngày 29 tháng 5, Welch gặp tôi và nói rằng cậu ta đã kiếm được một cuốn bút ký từ Kỷ thứ Tư. Nữ thần của tôi, một bản bút ký từ Kỷ thứ Tư! Do không muốn nhờ vả đồng học khoa Khảo cổ nên cậu ta muốn mời tôi cùng Naya giúp giải mã nội dung trên đó. Làm sao tôi có thể từ chối chuyện ấy được cơ chứ? Đương nhiên, điều này phải để sau khi bảo vệ xong đồ án tốt nghiệp đã. Bây giờ tôi không được phép phân tâm.
Đọc đến đây, Klein cảm thấy phấn chấn. So với những ghi chép trước đó về lịch sử và cuộc tranh luận quan điểm, cuốn bút ký Kỷ thứ Tư mới xuất hiện càng có khả năng nguyên nhân khiến chủ ban đầu của cơ thể này tự sát hơn.
Kỷ thứ Tư là Kỷ nguyên trước Thời đại Sắt Đen hiện nay. Lịch sử của nó tràn ngập sương mù. Thậm chí có rất ít lăng tẩm, thành cổ và tư liệu được khai quật. Các nhà khảo cổ học và nhà sử học chỉ có thể dựa vào kinh điển thần học đầy mơ hồ chủ yếu dùng để giáo hóa đức tin của Bảy đại giáo hội, mới miễn cưỡng chắp vá ra một chút nguyên mạo, biết về sự tồn tại của đế quốc Solomon, vương triều Tudor và đế chế Trunsoest.
Một người quyết tâm xua tan lớp sương mù để khôi phục lịch sử như Klein tất nhiên sẽ không mấy hứng thú với ba Kỷ đầu tiên thiên về truyền thuyết, thần thoại. Cậu ta chỉ quan tâm tới Kỷ thứ Tư, hay còn được gọi là ‘Thời đại chúng thần’ mà thôi. Cho nên sự kích động của cậu ta là rất dễ hiểu.
“Haha, xét theo góc độ nào đó, nguyên chủ kỳ thật không nhất thiết phải coi trọng cuộc phỏng vấn và lo lắng cho sự nghiệp tương lai đến vậy…” Klein buột miệng thốt ra một cảm thán.
Trước mắt, các trường đại học vẫn còn rất ít ỏi. Đa số sinh viên đều là con em quý tộc hoặc con nhà giàu. Nếu bình dân có thể bước vào đại học, cho dù bị kỳ thị thân phận, không được tham gia các cuộc xã giao chăng nữa, miễn là bản thân không quá cực đoan thì có thể dựa vào các hoạt động tập thể, thảo luận nhóm và chuyện tương tự để thu hoạch những mối quan hệ nhân sinh nhất định và quý báu!
Tỷ như Welch McGovern là con trai một ông chủ nhà băng ở thành phố Constant, quận Gian Hải, vương quốc Loen. Cậu ta rất hào sảng, ra tay hào phóng. Bởi thường được phân tổ làm bài tập với Klein và Naya nên cậu ta hay có thói quen nhờ họ giúp một tay.
Klein không nghĩ về điều đó nữa mà tiếp tục đọc những ghi chép.
Ngày 18 tháng 6, tốt nghiệp. Tạm biệt, đại học Hoy của tôi!
Ngày 19 tháng 6, tôi đã nhìn thấy cuốn bút ký kia. Khi so sánh cấu trúc và từ nguyên, tôi phát hiện ra nó được viết bằng một biến thể của ngôn ngữ Feysac cổ. Đúng hơn mà nói, ngôn ngữ Feysac cổ kỳ thực luôn có thay đổi nhỏ trong suốt hơn một ngàn năm lịch sử.”
Ngày 20 tháng 6, chúng tôi đã giải mã được nội dung của trang đầu tiên. Tác giả là thành viên của một gia tộc có tên là “Antigonus”.
Ngày 21 tháng 6, hắn nhắc tới “Hắc Hoàng Đế”. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với những suy đoán trước đó về thời đại này. Chẳng lẽ quan điểm của thầy hướng dẫn là sai lầm, “Hắc Hoàng Đế” thực ra là danh hiệu chung của tất cả các vị hoàng đế ở đế quốc Solomon?
Ngày 22 tháng 6, gia tộc được gọi là “Antigonus” này dường như là một gia tộc có địa vị hiển hách trong đế quốc Solomon. Tác giả bút ký đề cập rằng mình đang thực hiện một giao dịch bí mật với người có tên Tudor. Tudor? Vương triều Tudor?
Ngày 23 tháng 6, tôi ép mình không được nghĩ về cuốn sổ đó, không được đến chỗ Welch nữa. Tôi cần chuẩn bị cho buổi phỏng vấn! Chuyện này rất quan trọng!
Vô cùng quan trọng!
Ngày 24 tháng 6, Naya bảo tôi rằng họ đã có thu hoạch mới. Tôi nghĩ tôi nên tới xem thử xem sao.
Ngày 25 tháng 6, theo nội dung mới được giải mã, tác giả bút ký đã nhận một nhiệm vụ đến đỉnh chính của dãy núi Hornacis để thăm hỏi ‘Vương quốc Đêm’. Nữ thần của tôi! Đỉnh chính của Hornacis cao tới hơn sáu nghìn mét. Làm sao có quốc gia nào có thể tồn tại được ở đó? Họ sống bằng cách nào vậy!
Ngày 26 tháng 6, những thứ kỳ quái này đều là thật sao?
Ghi chép đã kết thúc tại đây. Rạng sáng ngày 28 tháng 6, Chu Minh Thụy xuyên không đến nơi này.
“Nói cách khác, ghi chép ngày 27 tháng 6 thực ra vẫn có. Chính là câu ‘Tất cả mọi người sẽ chết, kể cả tôi’ kia…” Klein lật sang trang mà mình nhìn thấy lúc đầu, cảm thấy hơi rợn người.
Anh cảm thấy rằng để giải quyết bí ẩn về cái chết của nguyên chủ, anh chắc chắn phải tới chỗ Welch để xem qua nội dung của cuốn sổ cổ xưa kia. Nhưng vốn kinh nghiệm phong phú từ tiểu thuyết, phim ảnh và phim truyền hình khiến anh có cảm giác, nếu mình đi, nếu sự tình quả thực có liên quan với nhau, thì bản thân anh chắc chắn sẽ gặp phải nguy hiểm khôn lường.
Không đi cũng không được. Trốn tránh thì sẽ không bao giờ giải quyết được gì, chỉ làm cho vấn đề càng lúc càng lớn hơn mà thôi.
Báo cảnh? Cũng không thể nói là mình đã tự sát được…
Cốc cốc cốc!
Tiếng đập cửa mạnh mẽ và dồn dập đột ngột vang lên.
Klein chợt thẳng người, vểnh tai lắng nghe.
Cốc cốc cốc!
Những tiếng gõ vang vọng quanh lối đi trên khu lầu vắng vẻ và quạnh quẽ.
“Ai thế?” Bởi anh đang nghĩ về vụ tự sát bí ẩn của nguyên chủ và khả năng mình sẽ gặp phải mối nguy hiểm bất ngờ thì lại nghe thấy tiếng gõ cửa bất thình lình, Klein vô thức mở ngăn kéo, lấy ra khẩu súng lục rồi hỏi bằng giọng đầy cảnh giác.
Ngoài cửa yên lặng chừng hai giây trước khi một giọng nói hơi the thé mang khẩu âm Ahova đáp: “Tôi. Mountbatten. Beech Mountbatten.”
Người kia dừng lại một chút, sau đó nói thêm: “Cảnh sát.”
Beech Mountbatten… Khi cái tên này lọt vào trong tai, Klein lập tức nghĩ đến chủ nhân của nó.
Đó là một trong những cảnh sát phụ trách khu chung cư ở ô phố này. Một kẻ dã man, thô lỗ và thích động tay động chân. Song chỉ có dạng người này mới đủ sức răn đe lũ nát rượu, trộm cắp và lũ ác ôn, côn đồ. Mà giọng nói độc đáo kia là một đặc trưng của hắn.
“Được rồi. Tôi đến ngay đây!” Klein lớn tiếng hồi đáp.
Khi định ném khẩu súng lục về ngăn kéo, anh chợt nghĩ tới việc không rõ tại sao cảnh sát lại tìm tới, cũng như chuyện họ có thể sẽ khám xét và làm các hành động điều tra khác. Vì thế, anh thận trọng chạy đến bên bếp lò đã tàn và đặt khẩu súng vào trong.
Sau đó, anh nhấc giỏ than nhỏ lên, đổ một ít lên trên khẩu súng rồi đặt thêm siêu nước để che hết dấu vết.
Chuẩn bị xong xuôi, anh sửa sang quần áo, sải bước đến gần cửa, vừa mở cửa vừa nói lơ mơ: “Xin lỗi. Tôi vừa mới ngủ trưa.”
Đứng ngoài cửa là bốn cảnh sát mặc đồng phục ca rô đen trắng, đội mũ mềm có gắn huy hiệu. Beech Mountbatten có chòm râu quai nón màu nâu nhạt khẽ ho khan một tiếng và nói với Klein: “Ba vị cảnh sát này có chuyện muốn hỏi anh.”
Cảnh sát? Klein liếc nhìn cầu vai của ba người kia. theo phản xạ. Anh phát hiện hai vị có ba viên ngôi sao sáu cánh màu bạc, trong khi người còn lại có hai viên. Tất cả đều trông cao cấp hơn quân hàm chỉ có ba chữ V của Beech Mountbatten.
Là một sinh viên khoa Lịch sử, Klein không am hiểu gì về cấp bậc quân hàm của cảnh sát. Anh chỉ biết Beech Mountbatten thường khoe khoang mình là một trung sĩ thâm niên.
Cho nên ba người này là cấp thanh tra? Chịu ảnh hưởng bởi anh cả Benson và các đồng học như Welch, Klein vẫn nắm được một chút thường thức. Anh tránh sang một bên, chỉ tay vào phòng nói: “Mời vào. Không biết có chuyện gì vậy?”
Dẫn đầu hai vị thanh tra là một người đàn ông luống tuổi có mái tóc màu nâu nhạt lộ ra dưới mép mũ. Bất chấp những nếp nhăn rõ ràng nơi khóe mắt, đôi mắt ông vẫn vô cùng sắc bén, phảng phất như có thể nhìn thấu lòng người, khiến người ta không thể không sợ hãi. Vừa quan sát gian phòng, ông vừa trầm giọng hỏi: “Cậu có biết Welch McGovern không?”
“Cậu ấy bị sao rồi?” Trái tim Klein run lên, rồi anh buột miệng hỏi.
“Tôi đang hỏi cậu đấy.” Ánh mắt của người cảnh sát luống tuổi đầy uy nghiêm có vẻ lành lạnh.
Viên cảnh sát cũng đeo quân hàm ba ngôi sao đứng cạnh ông thì mỉm cười bảo Klein: “Không cần căng thẳng thế đâu, chúng tôi chỉ hỏi thăm theo thông lệ mà thôi.”
Người này trạc ba mươi tuổi, mũi thẳng tắp, con ngươi màu xám, mang đến cho người ta cảm giác sâu sắc khó tả, tựa như một hồ nước không ai biết ẩn sâu trong rừng già.
Klein âm thầm hít một hơi, sắp xếp ngôn ngữ và nói: “Nếu ông đang nói đến sinh viên tốt nghiệp đại học Hoy, Welch McGovern đến từ Conston thì đúng là tôi có biết. Chúng tôi là bạn học, có cùng một thầy hướng dẫn, phó giáo sư thâm niên Quentin Cohen.”
Tại vương quốc Loen, giáo sư không chỉ là một chức danh mà còn là một chức vụ, kiểu như chức vụ của giáo sư và trưởng khoa ở nguyên thế giới được kết hợp làm một. Nói cách khác, mỗi khoa trong trường đại học chỉ có thể có một giáo sư. Nếu phó giáo sư muốn được thăng chức thì phải chờ cấp trên của mình về hưu, hoặc dùng thực lực đẩy đối phương ra.
Xét đến việc cần thiết để giữ chân nhân tài, Ủy ban giáo dục cao đẳng của vương quốc đã bổ sung cấp phó giáo sư lâu năm vào hệ thống ba cấp gồm giảng viên, phó giáo sư và giáo sư. Chức danh này được trao cho bất kỳ quý ông, quý bà nào có trình độ học thuật cao hoặc lý lịch đủ dài nhưng lại không có cách nào trở thành giáo sư.
Nói đến đây, Klein nhìn vào mắt vị cảnh sát trung niên, cân nhắc một giây rồi nói: “Thực ra thì mối quan hệ của chúng tôi khá tốt. Trong khoảng thời gian này, tôi, Welch và Naya thường xuyên gặp nhau để giải mã và thảo luận về một cuốn bút ký có từ Kỷ thứ Tư mà cậu ấy tìm được. Ngài cảnh sát, đã có chuyện gì xảy ra với cậu ấy sao?”
Thay vì trả lời, vị cảnh sát trung niên nghiêng đầu nhìn đồng nghiệp mắt xám.
Viên cảnh sát có gương mặt thường gặp, mắt xám và đội mũ mềm gắn huy chương đáp: “Tôi rất tiếc phải thông báo rằng, cậu Welch đã qua đời.”
“Sao lại thế?” Dẫu có vài dự cảm không tốt, Klein vẫn không khỏi kinh ngạc.
Welch cũng chết giống như nguyên chủ? Điều này có chút kinh khủng!
“Còn Naya thì sao?” Klein vội vàng hỏi.
“Cô Naya cũng đã mất.” Cảnh sát mắt xám nói một cách khá bình tĩnh, “Hai người họ đều chết trong nhà của cậu Welch.”
“Bị giết?” Klein mơ hồ đoán được, có thể là tự sát.
Cảnh sát mắt xám lắc đầu: “Không. Dấu vết ở hiện trường cho thấy họ đã tự tử. Cậu Welch liên tục đập đầu vào tường, khiến cả bức tường dính đầy máu; cô Naya thì tự dìm chết mình trong một chậu nước, loại chậu chuyên dùng để rửa mặt.”
“Không thể nào…” Tóc gáy Klein dựng đứng trước những lời ấy. Dường như anh có thể tưởng tượng ra cảnh tượng quỷ dị kia. Cô gái quỳ trên ghế, vùi mặt vào chậu rửa mặt đầy nước. Mái tóc nâu mềm mại của cô xõa tung, đung đưa trong làn gió, cơ thể bất động; Welch nằm vật trên sàn, đôi mắt mở to dán chặt vào trần nhà, cái trán hoàn toàn vỡ nát, vệt máu loang lổ khắp mặt đất, còn trên tường thì có vô số vết va đập.
Khóe miệng viên cảnh sát mắt xám nhúc nhích một chút trước khi tiếp tục nói: “Chúng tôi cũng cho là như vậy. Nhưng kết quả khám nghiệm tử thi và tình huống ở hiện trường đã loại trừ các yếu tố liên quan đến ngoại lực và ma túy. Bọn họ, ý tôi là cậu Welch và cô Naya hoàn toàn không có dấu hiệu phản kháng.” Không chờ Klein đáp lại, ông ta bước vào phòng và giả vờ hỏi bâng quơ: “Lần cuối cùng cậu gặp cậu Welch và cô Naya là khi nào?”
Vừa nói, ông ta vừa đưa mắt ra hiệu cho người đồng hành đeo cầu vai có hai ngôi sao bạc.
Đó là một cảnh sát trẻ tầm tuổi Klein. Anh ta có mái tóc màu đen, đôi mắt xanh lục, gương mặt ưa nhìn và mang khí chất lãng mạn của một nhà thơ.
Trước câu hỏi ấy, Klein nhanh chóng suy nghĩ và nói với vẻ suy tư: “Chắc là ngày 26 tháng 6. Chúng tôi đang cùng nhau giải mã một chương mới trong cuốn bút ký. Sau đó, tôi trở về nhà và chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn vào ngày 30. Phỏng vấn vào khoa Lịch sử của đại học Tingen.”
Thành phố Tingen được mệnh danh là thành phố của các trường đại học. Nơi đây có tới hai trường đại học Tingen và đại học Hoy. Ngoài ra còn có trường Kỹ thuật, học viện Luật sư, học viên Thương mại. Chỉ đứng sau thủ đô Backlund.
Dứt lời, anh thấy tay cảnh sát trẻ tuổi đã đi đến bàn học, cầm cuốn sổ tay giống như nhật ký lên.
Gay rồi! Mình quên không giấu nó đi! Klein vội vã kêu một tiếng: “Này!”
Tay cảnh sát trẻ mỉm cười đáp lại anh, nhưng vẫn tiếp tục hành động lật xem ghi chép. Trong khi đó, viên cảnh sát mắt xám giải thích: “Đây là thủ tục bắt buộc.”
Lúc này, Beech Mountbatten và vị cảnh sát trung niên uy nghiêm chỉ đứng nhìn chứ không chen miệng hay hỗ trợ điều tra.
Lệnh khám xét của mấy người đâu? Klein vốn định chất vấn như vậy, nhưng nghĩ kỹ lại thì hệ thống tư pháp của vương quốc Loen hình như vẫn chưa có cái gọi là lệnh khám xét. Chí ít thì bản thân mình không biết là có hay không. Xét cho cùng, lực lượng cảnh sát cũng mới được thành lập vào mười năm, mười sáu năm trước.
Lúc Klein còn nhỏ, chức vụ cảnh sát vẫn có tên là quan trị an.
Không có cách nào, Klein chỉ có thể trơ mắt nhìn tay cảnh sát trẻ đọc lướt qua “cuốn nhật ký của mình”. Viên cảnh sát mắt xám thì không hỏi thêm câu nào.
“Thứ kỳ quái là thứ gì vậy?” Lật đến trang cuối cùng, tay cảnh sát trẻ bỗng hỏi, “Chưa hết, câu này có nghĩa là gì? ‘Tất cả mọi người đã chết, kể tả tôi’…”
Trừ thần linh ra thì ai chẳng phải chết, đó là lẽ thường mà? Khi Klein định giảo biện một câu, anh đột nhiên nghĩ tới việc mình đã lên kế hoạch kết nối với cảnh sát để phòng ngừa trường hợp gặp phải nguy hiểm, nhưng khổ nỗi là không có lý do hay cái cớ thích hợp.
Chưa đầy một giây, anh quyết đoán đưa tay che trán và đau đớn nói: “Tôi không biết. Tôi thực sự không biết nữa… Sau khi thức dậy vào sáng nay, tôi đã cảm thấy mình không thích hợp, như thể đã quên mất một vài chuyện. Nhất là mấy chuyện xảy ra gần đây. Tôi thậm chí không biết tại sao mình lại viết ra câu đó nữa.”
Đôi khi, thẳng thắn là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề. Đương nhiên, nó đòi hỏi kỹ xảo, cái gì có thể nói, cái gì không nên nói, cái gì phải nói trước, cái gì phải nói sau. Còn cách nói chuyện như thế nào lại là một phương diện khác.
Làm một ‘giang cư mận’ lâu năm, Klein cũng từng nghiên cứu qua về thuật ăn nói này.
“Vớ vẩn! Cậu xem chúng tôi là lũ ngốc sao?” Beech Mountbatten giận dữ nói. Gã thực sự không nhịn nổi.
Lời nói dối này quá vụng về, chẳng khác nào một lời xúc phạm tới trí thông minh của bản thân và những người khác!
Thà mày giả bệnh tâm thần còn hơn là giả vờ mất trí nhớ!
“Thật mà.” Klein thản nhiên đáp lại Mountbatten và vị cảnh sát trung niên. Chuyện này thật đến mức không thể thật hơn.
“Có thể có khả năng ấy.” Lúc này, viên cảnh sát mắt xám chậm rãi mở miệng.
Hở? Ông ta tin luôn? Klein cảm thấy kinh ngạc.
Viên cảnh sát mắt xám nở nụ cười với anh: “Hai ngày nữa sẽ có một vị chuyên gia đến đây. Hãy tin tôi, cô ấy hẳn là có thể giúp cậu tìm lại những ký ức đã mất.”
Chuyên gia? Giúp nhớ lại ký ức? Lĩnh vực tâm lý học? Klein nhíu mày.
“Nếu mình để lộ ra ký ức ở nguyên thế giới thì phải làm sao bây giờ?” Nghĩ đến đây, anh bỗng cảm thấy ê răng.
Tay cảnh sát trẻ đặt cuốn sổ ghi chép xuống rồi bắt đầu lục soát bàn làm việc và căn phòng. May thay, anh ta đã tập trung điều tra các cuốn sách chứ không nhấc ấm lên nhìn.
“Được rồi. Cậu Klein. Cảm ơn sự hợp tác của cậu. Tốt hơn hết là cậu không nên rời khỏi thành phố Tingen trong mấy ngày tới. Nếu bắt buộc phải làm vậy thì hãy thông báo cho cảnh sát Mountbatten một tiếng. Bằng không thì cậu sẽ trở thành đào phạm đấy.” Cuối cùng, viên cảnh sát mắt xám dặn dò.
“Vậy là xong? Hôm nay chỉ đến đây thôi? Không cần hỏi thêm hay điều tra gì nữa? Không bắt mình về đồn để dùng hình sao?” Klein ngơ ngác nghĩ.
Có điều, anh cũng muốn giải quyết sự việc kỳ quái mà Welch mang lại, nên đã gật đầu nói: “Không thành vấn đề.”
Những viên cảnh sát lần lượt rời khỏi căn phòng. Riêng người đi ra cuối cùng bỗng vỗ vào vai Klein: "Tốt quá rồi nhỉ. May thật đấy."
"Hả?" Klein trông có vẻ bối rối trước lời nói ấy.
Tay cảnh sát mắt xanh có khí chất thi nhân khẽ cười:"Theo lẽ thường, những người gặp phải chuyện này đều sẽ chết hết cả."
"Chúng tôi rất vui, và cũng thật may mắn khi thấy cậu vẫn còn sống." Nói xong, anh ta bước đi, tiện tay đóng luôn cánh cửa lại.
"Bình thường mọi người sẽ chết hết? Thấy vui khi mình còn sống? Thấy may mắn khi biết mình còn sống?”
Giữa chiều tháng sáu này, Klein lại cảm thấy ớn lạnh không thôi.
Anh rùng mình, bước vội hai bước về phía cánh cửa, định đuổi theo mấy viên cảnh sát kia để tìm kiếm sự bảo vệ.
Nhưng vừa chạm vào nắm cửa, anh bỗng dừng lại.
“Nếu chuyện này đáng sợ như lời tay cảnh sát kia nói thì tại sao họ phái người đến bảo hộ một nhân chứng quan trọng, một manh mối mấu chốt như mình? Điều này không phải quá bất cẩn sao? Là thăm dò, hay thả mồi nhử?”
Những ý nghĩ khác nhau hiện lên trong đầu Klein, khiến anh hoài nghi cảnh sát đang bí mật giám sát và quan sát phản ứng của mình.
Nghĩ tới đây, nội tâm anh bình tĩnh hơn rất nhiều, không còn tỏ ra bối rối hoảng sợ nữa. Anh từ từ mở cửa, cố ý hét hô lên những lời run rẩy theo hướng cầu thang: “Mấy người sẽ bảo vệ tôi, đúng không?”
Cộp cộp cộp --- Không có một câu trả lời nào từ những người nhân viên của chính phủ. Tiết tấu giày da va chạm trên cầu thang gỗ vẫn đều đều như cũ.
“Tôi biết, mấy người sẽ làm như vậy!” Klein lại hô lên một lần nữa với giọng giả vờ tin tưởng, cố gắng cư xử như một người bình thường gặp được nguy hiểm.
Tiếng bước chân yếu dần rồi biến mất ở tầng trệt của tòa chung cư.
Klein khịt mũi, tự giễu trong bụng một câu: “Phản ứng gì mà giả tạo thế? Diễn dở tệ!”
Thay vì đuổi theo, anh quay về phòng và kéo sập cánh cửa lại.
Trong mấy tiếng đồng hồ tiếp theo, Klein đã thể hiện hết các trạng thái bồn chồn, nôn nóng, lo lắng, đứng ngồi không yên đến việc lảm nhảm những điều vô nghĩa.
Đây gọi là phẩm chất cần có của một diễn viên! Câu nói tự giễu ấy nảy ra trong lòng anh.
Khi mặt trời ngả về phía Tây và thiêu đốt màu mây của chân trời, cư dân của tòa chung cư lần lượt trở về nhà, Klein mới chuyển sự chú ý của mình sang nơi khác.
“Tầm này chắc Melissa đã tan học rồi…” Anh chuyển qua bếp lò, nhấc siêu lên, gạt than và lấy thanh súng lục ổ xoay ra.
Không dừng lại ở đó, anh lật tấm ván giường tầng lên. Ở đó có mấy chục thanh gỗ so le đan lấy nhau.
Sau khi đặt súng vào giữa một thanh gỗ và hạ tấm ván xuống, Klein thẳng người và hồi hộp chờ đợi. Anh sợ cảnh sát sẽ đột nhiên ập tới, xông vào phòng với súng trên tay.
Nếu là thế giới Hơi nước bình thường, anh dám chắc hành vi vừa rồi sẽ không bị ai nhìn thấy/ Tuy nhiên, nơi này lại có lực lượng siêu phàm, một thứ sức mạnh mà bản thân anh đã tự mình kiểm chứng.
Vài phút trôi qua, cánh cửa vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có tiếng trò chuyện lúc gần lúc xa của hai người khách trọ hẹn nhau đến quán bar “Trái Tim Hoang Dã” trên đường Thiết Thập Tự.
“Hà,” Klein thở ra một hơi, đặt trái tim về lồng ngực.
Chờ Melissa về làm món thịt cừu hầm đậu hà lan nữa thôi!
Cùng với ý nghĩ ấy, Klein dường như có thể cảm nhận được hương vị thơm ngon của nước thị tràn trong khoang miệng mình. Đồng thời, anh cũng nhớ lại cách Melissa nấu món này.
Cô sẽ luộc thịt trước, sau đó cho cả hành tây, muối, một chút hạt tiêu và nước vào hầm, chờ tới một lúc nhất định thì bỏ thêm đậu hà lan và khoai tây ninh vào ninh cùng trong khoảng bốn mươi đến năm mươi phút.
“Quả thực là cách làm quá đơn giản, quá thô sơ! Hương vị hoàn toàn dựa vào độ ngon của thịt.” Klein không thể không lắc đầu.
Nhưng biết làm sao được, người ta là nhà bình dân, đâu có các loại gia vị hay biết được nhiều cách nấu ăn, chỉ có thể theo đuổi sự đơn giản, thiết thực và rẻ tiền. Với những người chỉ được ăn thịt hai lần trong một tuần này, miễn là miếng thịt không bị cháy, không bị nát là được.
Dẫu Klein không giỏi nấu nướng, hàng ngày đều đi ăn hàng, nhưng anh vẫn tự tay nấu ăn ba đến bốn lần một tuần. Nhờ nấu nhiều thành quen mà kỹ năng nấu nướng của anh đã đạt tới trình độ tiêu chuẩn. Vì thế, anh cảm thấy mình không thể phụ lòng 1 pound thịt cừu non ấy.
“Nếu chờ Melissa về rồi mới làm, sơ chế xong cũng phải đến bảy rưỡi, như vậy em ấy sẽ đói xỉu mất. Đã đến lúc cho Melissa biết về cách nấu nướng thực sự rồi.” Klein tìm cho mình một cái cớ. Anh nhóm lại lửa trong lò rồi đến phòng vệ sinh chung để lấy nước. Sau khi rửa sạch thịt cừu, anh đặt nó lên thớt và dùng dao phay chặt thịt thành từng miếng nhỏ.
Anh cũng đã nghĩ sẵn lý do giải thích việc mình đột nhiên biết nấu ăn, bằng cách đổ vấy lên người chết Welch McGovern. Người bạn học này không chỉ thuê một đầu bếp am hiểu các món đặc sản Gian Hải mà còn thường xuyên tự mày mò chế biến các món ăn ngon để mời mọi người nếm thử.
“Ừm, người chết sẽ không cãi lại mình! Có điều đây là một thế giới có những kẻ phi phàm. Chắc gì người chết không thể mở miệng…” Suy nghĩ đó làm Klein có chút chột dạ.
Gạt những ý niệm lung tung sang một bên, Klein bỏ thịt cùng một thìa rưỡi những hạt muối thô đã ố vàng vào tô. Sau đó, anh cẩn thận rắc thêm một ít hạt tiêu đen từ trong chiếc lọ chuyên dụng, trộn đều chúng với nhau rồi để ướp một lát cho thấm gia vị.
Anh bắc nồi hầm lên bếp. Trong lúc chờ nồi nóng lên, Klein tranh thủ xắt cà rốt thừa từ hôm qua với hành tây mới mua thành nhiều miếng nhỏ.
Xong xuôi, anh cầm lấy một chiếc lọ đặt trong tủ và mở ra, bên trong là một ít mỡ heo.
Klein múc một muôi, cho vào nồi. Khi mỡ tan, anh trút hành tây và cà rốt vào xào qua.
Đến khi mùi thơm bắt đầu lan tỏa, Klein mới cho thịt cừu non vào rồi đảo kỹ.
Đáng ra trường hợp này phải có thêm một ít rượu gia vị nữa, hoặc ít nhất cũng phải thay bằng rượu vang. Nhưng nhà Moretti không có những thứ xa xỉ như thế. Benson cũng chỉ có thể uống một ly bia trong một tuần. Klein đành phải liệu cơm gắp mắm, cứ thế đun nó với một ít nước sôi.
Khoảng hai mươi phút trôi qua, anh mở nắp, cho thêm đậu hà lan non, khoai tây cắt nhỏ, một cốc nước nóng và hai thìa muối.
Anh đậy nắp lại, điều chỉnh cho lửa nhỏ đi. Cuối cùng, Klein thở dài với vẻ thỏa mãn và chờ em gái về nhà.
Thời gian dần trôi đi, hương thơm trong phòng càng lúc càng nồng nặc, không chỉ có mùi thịt hấp dẫn, mùi khoai tây đậm đà mà còn có cả mùi hành tây độc đáo.
Hương vị của chúng dần hòa quyện với nhau. Klein vừa nuốt nước bọt hết lần này đến lần khác, vừa mở nắp đồng hồ quả quýt để xem giờ.
Sau hơn bốn mươi phút, tiếng bước chân có tiết tấu trật tự nhưng không mấy nhẹ nhàng đến gần. Chìa được tra vào ổ. Tay nắm cửa chuyển động. Cánh cửa phòng mở ra.
“Thơm quá..” Tiếng Melissa đã vang lên trước khi cô xuất hiện.
Cô cầm túi xách bước vào, mắt đảo qua bếp lò.
“Anh nấu?” Động tác cởi mũ có mạng che mặt của Melissa khựng lại khi cô nhìn Klein với ánh mắt đầy kinh hãi.
Cô chun mũi, hít thêm mùi hương, ánh mắt nhanh chóng dịu lại, tựa như đã tìm được một chút lòng tin.
“Anh nấu à?” Cô nghi ngờ hỏi lại.
“Em sợ anh lãng phí thịt cừu hay sao?” Klein mỉm cười đáp. Thay vì chờ một câu trả lời, anh nói luôn: “Đừng lo. Anh đã nhờ Welch dạy riêng cho mình món này rồi. Em biết đấy. Nhà anh ta có một đầu bếp rất giỏi mà.”
“Đây là lần đầu tiên anh nấu nhỉ?” Chân mày Melissa bất giác nhăn lại trước khi được hương thơm vuốt phẳng.
“Có lẽ anh rất có thiên phú.” Klein cười một tiếng, “Sắp xong rồi. Em đi cất đồ và rửa tay đi. Chờ ăn là được. Anh đảm bảo.”
Trước những lời an bài đầu ra đấy cùng nụ cười ấm áp và bình tĩnh của anh trai, Melissa ngơ ngác đứng trước cửa, không có một phản ứng.
“Em thích hầm nhừ hơn một chút không?” Klein lại cười và giục một câu.
“À, được, được ạ!” Melissa hoàn hồn, một tay nhấc túi, một tay cầm mũ và chạy nhanh vào phòng trong.
Klein mở nắp vung, khiến sương mù bốc lên trước mặt. Hai chiếc bánh mì lúa mạch đen được bên cạnh thịt và đậu hà lan từ ban nãy để hấp thụ mùi thơm và nhiệt đã trở nên mềm xốp hơn hẳn.
Khi Melissa cất đồ xong và quay về phòng với bàn tay cùng gương mặt sạch sẽ, cô đã thấy trên bàn bày sẵn một đĩa thịt cừu hầm khoai tây, cà rốt, hành tây được điểm tô bằng đậu hà lan, cùng hai chiếc bánh mì dính chút nước thịt được chia riêng thành hai đĩa.
“Lại đây, ăn thử xem.” Klein chỉ về phía chiếc dĩa và muôi bằng gỗ đặt cạnh đĩa.
Tuy còn có chút ngỡ ngàng, Melissa không hề từ chối, mà cầm nĩa, xiên một miếng khoai tây, đưa lên miệng và cắn một cái.
Khoai tây mềm dẻo, nước thịt thơm nồng tràn ngập trong khoang miệng, khiến nước miếng của cô chảy dòng dòng. Chỉ sau hai ba lần cắn, cô đã ăn hết miếng khoai.
“Ăn cả thịt nữa đi.” Klein dùng cằm ra hiệu.
Khi nãy nếm thử, anh cảm thấy mùi vị chỉ đạt tới mức hợp lệ, nhưng đối với một cô bé chưa từng đi chợ lại thỉnh thoảng mới được ăn thịt như thế này thì như vậy là quá đủ!
Tia sáng mong chờ xuất hiện trong mắt Melissa. Cô cẩn thận xiên lấy một miếng thịt cừu.
Thịt cừu hầm khá nhừ, ăn vào có cảm giác như sắp tan. Mùi thịt thực sự vỡ òa, nước dùng tuyệt vời ứa ra, tràn ngập khoang miệng.
Cảm giác tốt đẹp chưa từng có khiến Melissa không thể dừng lại.
Chờ đến khi lấy lại tinh thần, cô đã ăn được vài miếng thịt.
“Em… em… Klein, cái này là cho anh mà…” Mặt Melissa lập tức đỏ lựng, lời nói cũng vấp váp.
“Anh đã ăn trước rồi. Đó là đặc quyền của đầu bếp.” Klein mỉm cười trấn an em gái, đồng thời cầm nĩa và thìa lên, khi thì ăn một miếng thịt, lúc thì nhai một ít đậu hà lan, thỉnh thoảng lại đặt thìa nĩa xuống, xé một miếng bánh mì đen rồi nhúng vào nước dùng để ăn.
Melissa thả lỏng người. Bị ảnh hưởng từ hành động bình thản của Klein, cô tiếp tục đắm chìm vào mỹ vị.
“Ngon thật đấy. Em nghĩ chẳng có ai nhận ra rằng đây là lần đầu tiên anh xuống bếp đâu.” Melissa liếc nhìn cái đĩa sạch trơn cả nước và cất lời ca ngợi từ tận đáy lòng.
“So với đầu bếp của Welch thì anh còn kém xa. Chờ có tiền, anh sẽ mang em và Benson đi ăn ở nhà hàng ngon!” Klein nói rằng anh bắt đầu mong đợi điều đó.
“Buổi phỏng vấn của anh, hức.” Khi còn chưa nói hết câu, Melissa đột nhiên phát ra một tiếng nấc thỏa mãn.
Cô cuống quýt đưa tay che miệng với vẻ ngượng ngùng không thôi. Tất cả là do món thịt cừu hầm đậu hà lan kia quá ngon!
Klein cười thầm. Bởi quyết định không trêu chọc em gái, anh chỉ đĩa và nói: “Nhiệm vụ của em đó.”
“Vâng!” Melissa vội vã đứng lên, cầm đĩa lao ra cửa.
Sau khi dọn dẹp trở về, em bắt đầu kiểm tra các hộp đựng gia vị và đồ dùng để trong tủ theo thói quen.
“Nãy anh đã dùng cái này sao?” Melissa kinh ngạc thốt lên. Cô quay đầu nhìn Klein với lọ tiêu đen và bình mỡ lợn trong tay.
Klein nhún vai cười đáp, “Anh dùng một chút thôi. Đây là cái giá của đồ ăn ngon.”
Ánh mắt Melissa lóe lên, biểu cảm thay đổi mấy lần. Cuối cùng, em mím môi bảo: “Sau này anh cứ để em nấu đi. Ừ… Anh phải tập trung chuẩn bị cho buổi phỏng vấn và cân nhắc về công việc tương lai mà.”