Chương 1.2: Nhà ga xe lửa nổi trên chân trời xanh thẳm
Độ dài 1,365 từ - Lần cập nhật cuối: 2023-03-20 22:25:55
Một trong số vật dụng mà tôi sở hữu đó chính là chiếc bếp lò hình trụ, có kích thước nhỏ và xách được bằng một tay. Sau một thời gian dài sử dụng thì màu sắc vốn có đã bị phai mờ - có lẽ là màu vàng - và phần kim loại xung quanh đầu đốt - trông như chiếc cốc - ở trung tâm đã bị cháy sém thành một màu xám đen. Cái bếp đã trong tình trạng như thế từ khi tôi mang về, và thậm chí tôi còn không thể đoán được nó đã được sử dụng trong bao lâu rồi. Cái bếp này - người ta gọi nó là bếp trại Svea - rất chi là đơn giản, và ý nghĩa của cái tên là bền vững. Họ luôn nói rằng bếp Svea sẽ vẫn tồn tại dù mọi người đã ra đi.
Trên Svea có một chiếc chìa khóa nhỏ được gắn lủng lẳng với dây xích. Tôi tra chiếc chìa khóa ấy vào ống dẫn giữa bình nhiên liệu với đầu đốt rồi xoay nó để mở. Sau đó, tôi đặt một que diêm vào đầu đốt. Phừng. Một ngọn lửa nhảy múa trên đỉnh bếp lò, nó bập bùng cùng với tiếng kêu lách tách. Ngọn lửa cứ tròng trành cho đến khi hơi nóng của nó chạm đến những viên đá mana trong bình nhiên liệu.
Tôi nhìn vào đáy hộp diêm của mình rồi lắc nhẹ, đếm số que diêm còn sót lại. Cất hộp diêm vào hộp chứa đồ, vì đã gần hết diêm nên tôi quyết định sẽ đi kiếm thêm ở đâu đó.
Tôi ngồi xuống bậc thang của nhà ga rồi khoanh chân, đưa ánh mắt mông lung lên bầu trời cao rộng. Những gợn mây lơ lửng trên bầu trời rực đỏ, và mặt nước bên dưới cũng đang phản chiếu sắc đỏ tuyệt đẹp đó.
Ngọn lửa đang cháy trên đầu đốt của Svea đã ổn định. Tôi lục lọi chiếc ba lô vừa mang ra từ trong xe, lấy ra một chiếc ấm đun nước cỡ nhỏ, rồi múc một ít nước ở dưới chân cầu thang.
Tôi lấy một lượng cà phê rang có thể lấp đầy một chiếc tách nhỏ từ trong túi da, rồi đặt nó ngay giữa tấm mùi soa mà mình vừa trải lên sàn. Tiếp đến, tôi gói quanh lại rồi nghiền bằng cán của một chiếc rìu nhỏ. Tôi liên tục đập đống hạt cho đến khi chúng vỡ vụn rồi mới mở khăn ra. Hạt cà phê không nhẵn cũng không thô, nhưng trong hoàn cảnh này thì tôi chỉ làm được có vậy.
Tôi đổ đống hạt vụn cà phê vào trong ấm, đậy nắp rồi đặt lên Svea. Giảm lửa xuống, những việc phải làm còn lại chỉ là chờ đợi. Tôi dùng một chiếc khăn tay da để nâng chiếc ấm lên rồi từ từ rót vào cốc, cẩn thận để không bị trào ra ngoài. Thứ chất lỏng màu nâu đổ ra với mùi hương thơm phức. Người ta gọi cách pha chế này là “dã chiến” - một phương pháp cũ từ các cao bồi miền tây và người Mỹ bản địa. Nói cách khác, bạn có thể gọi nó là phương pháp truyền thống nhất. Tôi thổi vào cốc, làm hơi nước bay đi cũng như làm nguội đồ uống, rồi nhấp một ngụm.
“Ọe…”
Tất nhiên, không phải cứ là truyền thống thì ngon. Thứ này đắng kinh khủng. Hạt cà phê bị giã thô và thời gian đun lâu khiến cho thức uống vị đắng kết hợp với vài vị kinh tởm khác. Tôi tìm thấy đống hạt cà phê đó được một thời gian rồi, và vị của chúng ngày càng tệ hơn. Nó giống bùn chứa caffein hơn là một loại cà phê chính hiệu.
Phải đổ một đống đường may ra tôi mới có thể uống được ly cà phê đó.
Tôi để cái ly lên đùi rồi đưa ánh mắt trống rỗng ngắm nhìn cảnh vật xung quanh, thi thoảng lại nhấm nháp thứ bùn đắng kia. Kettle - chiếc xe có màu xanh ô liu, được đậu giữa một đồng bằng ngập nước. Những cơn gió lướt qua mặt nước, tạo ra những gợn sóng lăn tăn xoáy quanh bánh xe của Kettle trước khi lan tiếp ra xa. Hình ảnh phản chiếu của hoàng hôn bị dao động bởi chúng, khiến tôi có cảm giác như thế giới này đang sống lại, dù chỉ là một chút.
Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng bước chân rồi quay người lại về phía của tiếng chân ấy. Cô gái đứng trong bóng tối của nhà ga, đeo ba lô trên lưng. Cô đang phải ngả người ra sau để giữ thăng bằng cho cái giá vẽ mà mình đang ôm trước mặt.
“Chào buổi tối,” tôi chào, cố gắng giấu đi sự lúng túng của mình.
Cô cau mày, không thèm giấu đi sự ngờ vực hiện rõ trên khuôn mặt cũng như câu trả lời của mình. Tôi cố gắng tiếp tục cuộc trò chuyện.
“Tôi đã quyết định là sẽ qua đêm ở đây. Muốn ít cà phê không? Dù vị nó khá tệ.”
Sau một hồi im lặng, cô cất tiếng hỏi, “Cậu đang mời tôi uống một thứ có vị dở tệ đấy à?”
“Sẽ ổn cả thôi khi mà đã quen được với nó.”
“Cảm ơn,” cô nói, cố kéo dài câu từ của mình ra, “Cảm ơn nhưng không.”
Cô di chuyển đến cầu thang ở cạnh lối vào - cố cách xa tôi nhất có thể - và để đồ đạc của mình xuống. Sau đó, cô ấy cúi người và bắt đầu tháo đôi bốt cao cổ.
Màu tóc của cô ấy thật lạ. Ánh mặt trời len lỏi qua mái tóc màu bạc ấy khiến cho nó rực đỏ và dường như trong suốt. Phần tóc còn lại thì có màu xám nhạt hơn nhiều, có lẽ là bởi ánh nắng làm cho phai đi.
Cô cúi người về phía trước, mái tóc màu bạc xõa xuống như một tấm màn che đi một phần khuôn mặt. Khi cô vuốt ngược tóc qua tai, tôi có thể thấy một đôi tai nhọn.
“Cậu chưa bao giờ nhìn thấy một bán-elf à?” cô lạnh lùng hỏi.
“Xin lỗi, tôi chỉ đang nghĩ rằng tại sao tóc cô lại có màu lạ như thế. Mà tôi cũng chả biết gì về bán-elf cả.”
Dù là lí do gì đi chăng nữa thì việc nhìn chằm chằm vào một cô gái như thế là rất bất lịch sự, đặc biệt là khi cả hai là người dưng. Tôi quay người lại rồi nhấm nháp ly cà phê, cố gắng giấu đi sự bối rối của mình.
Tiếng nước bắn tung tóe thu hút sự chú ý của tôi. Liếc nhìn qua khóe mắt, tôi có thể thấy cô ấy đang bỏ đi. Cô buộc đôi ủng của mình vào giá vẽ, và chúng đung đưa mỗi khi cô bước chân. Đường viền váy của cô nổi lên và lướt đi trên mặt nước. Cô rẽ sang phía bên kia của nhà ga, đi khuất khỏi tầm nhìn của tôi. Có thể đó là nơi cô ấy đỗ xe hay phương tiện gì đấy của mình.
Mắt tôi dõi theo từng gợn sóng mà cô đã để lại sau mỗi bước đi, nhưng chẳng được bao lâu thì chúng cũng sẽ biến mất, để tôi một mình với nỗi cô đơn. Việc nói chuyện với ai đó nhắc lại cảm giác về những ngày thường nhật, và điều đó khiến vai tôi nặng trĩu.
Tôi cảm nhận vị đắng của chỗ cà phê còn lại qua cổ họng. Vị chát đắng đó tăng lên vì thức uống đã nguội đi, khiến mặt tôi nhăn lại.
Chà, đành chịu thôi. Việc trở nên thân mật với ai đó trong thế giới này thật chẳng dễ dàng gì.
Tôi có thể cảm nhận được đống sạn cà phê trong miệng. Vì tôi không dùng máy pha, nên chúng đã lắng xuống đáy ly. Tôi uống nốt ngụm cà phê cuối cùng trước khi dùng một ít nước để súc miệng mình.